Đề Xuất 5/2023 # Xá Lợi Phật Là Gì? Thần Lực Của Xá Lợi Phật Có Thật Không? # Top 11 Like | Shareheartbeat.com

Đề Xuất 5/2023 # Xá Lợi Phật Là Gì? Thần Lực Của Xá Lợi Phật Có Thật Không? # Top 11 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Xá Lợi Phật Là Gì? Thần Lực Của Xá Lợi Phật Có Thật Không? mới nhất trên website Shareheartbeat.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

VẤN: Con nghe rất nhiều bạn đồng tu nói về xá lợi Phật và của các thánh tăng cũng như sự mầu nhiệm của xá lợi Phật. Con không hiểu xá lợi Phật có từ đâu? Tại sao có người lại chết lưu lại xá lợi và có người thì không? Thần lực của xá lợi Phật là có thật không? Con nghe nói xá lợi nếu chú nguyện thành tâm có thể đạt được sự mầu nhiệm và xá lợi có thể sinh ra thêm, như vậy có đúng không? Ngược lại, con nghe nói nếu không thành kính với xá lợi sẽ bị tội và xá lợi có thể biến mất. Điều này có đúng không? Tại sao xá lợi lại có rất nhiều màu sắc và hình dáng khác nhau? Chúng con nên hành xử như thế nào để không bị tội trước xá lợi. Con xin cảm ơn Sư. Đáp:

Tín ngưỡng xá lợi có từ thời Đức Phật, tại các vùng thuộc Á châu, một xứ sở có nhiều tôn giáo đặc thù, huyền bí linh thiêng, nhất là thời kỳ Phật hành đạo và sau khi Phật nhập niết bàn. Người Phật tử ngày nay từ đông bán cầu đến tây bán cầu thường nghe nói đến xá lợi, chiêm ngưỡng xá lợi, rước xá lợi, cung nghinh xá lợi, đảnh lễ xá lợi, tôn thờ xá lợi, xây tháp cúng dường xá lợi Phật.

Có câu:

Phật tại thế thời con ngã trầm luân

Phật nhập diệt con mới được thân người

Tủi phận thân con nhiều tội chướng

Bùi ngùi chẳng thấy đặng kim thân

Người tín ngưỡng xá lợi Đức Phật tự nghĩ rằng: Phật giáng thế thì ta vô minh; Phật tịch diệt thì ta mới được sanh ra, nên tín ngưỡng tôn thờ xá lợi Phật xem như Phật hiện tiền.

Xuất xứ:

Nói đến xá lợi, xưa người ta chỉ nghĩ đến xá lợi của Đức Phật mà thôi. Cho đến khi Phật pháp được lan tỏa khắp hoàn cầu, người Phật tử tín ngưỡng thêm xá lợi chư Thanh văn A la hán đại đệ tử của Đức Phật. Ngoài ra còn có những vị Thánh Tăng và các vị Đạo Sư tu hành đạo cao đức cả, chư tôn đức Pháp chủ, Tăng chủ, Tông chủ, các bậc Thầy tổ sau khi thị tịch đem làm lễ trà tỳ, các đệ tử cũng thâu được nhiều phần tinh thể của các vị còn lại gọi là xá lợi. Tất cả những đồ dùng thuộc di tích của Phật và các vị Thánh Tăng như pháp y, bình bát, chuổi tràng, tích trượng, v.v. hoặc răng, móng, tóc của các bậc đạo sư Phật giáo đang hành đạo, lúc tuổi niên cao lạp trưởng ban cho đệ tử tôn thờ đều gọi là xá lợi. Hiện nay ở Myanmar, người ta còn thờ tóc và móng tay của Đức Phật khi sanh tiền đã cắt cho Bạc Lệ Ca, Da Lễ Phù Ba, hai vị đệ tử tại gia đầu tiên. Trong kinh tạng Nam tông Phật giáo thường đề cập đến “xá lợi xương, xá lợi răng và ngọc xá lợi…” (Trường A Hàm, phẩm Đức Phật nhập niết bàn, quyển 1)

Cách đây 2.558 năm, Đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật của chúng ta thị hiện sanh ra trong công viên Lâm Bi Ni, cung vua Tịnh Phạn, mẹ là Hoàng hậu thánh mẫu Ma Ya trị vì vương quốc Ca Tỳ La Vệ. Năm 29 tuổi xuất gia bên dòng sông A Nô Ma, 6 năm tu khổ hạnh tại Khổ Hạnh lâm cạnh dòng sông Ni Liên, 35 tuổi thành đạo dưới cây Tất Bát La gần thủ phủ Gaya ngày nay. Trải một thời gian dài 45 năm hoằng hóa đạo mầu, từ đông sang tây, từ Tibet đến Afghanistan, từ Hy Mã Lạp Sơn đến Ấn Độ Dương, đến khi niết bàn tại Câu Thi Na, chư đệ tử đem nhục thân thiêu hóa và còn tồn tại những tinh hoa như tủy, xương, thịt v.v… được 8 vương quốc khắp vùng Bắc Á thời bấy giờ tôn thờ, như:

1/. Vua nước Chiêm Bà,

2/. Dân chúng dòng Bạt Ly thuộc nước La Phả,

3/. Dân chúng dòng Bà la môn nước Tỳ Lưu Đồ,

4/. Dân chúng dòng Câu Lợi thuộc nước La Ma Già,

5/. Dân chúng dòng Thích Ca nước Ca Tỳ La Vệ,

6/. Dân chúng dòng Ly Xa thuộc nước Tỳ Xá Ly,

7/. Dân chúng dòng Ly Xa thuộc nước Câu Thi Na,

8/. Vua A Xà Thế của nước Ma Kiệt Đà.

Tháp thứ chín thờ cái bình, tháp thứ mười thờ tro hài cốt, và tháp thứ mười một thờ tóc Phật khi Ngài còn tại thế gian. Đặc biệt, Phật đản sanh, xuất gia, thành đạo, nhập Niết bàn đều vào ngày tám tháng hai (Trường A Hàm, phẩm Đức Phật nhập niết bàn, quyển 1, trang 119-234 – Toàn Không)

Kinh Đại Bát Niết Bàn diễn tả rằng sau lễ trà tỳ, Xá Lợi của Đức Phật được chia làm tám phần và phân chia cho đại diện của tám nước đem về tại quốc gia họ. Nhưng hơn 200 năm sau đó, khi hoàng đế A Dục thống nhất toàn thể lãnh thổ xứ Ấn và trở thành một vị vua Phật tử hộ đạo, vua A Dục đã gom tất cả Xá Lợi ở tám nơi và chia thành 84.000 phần, đựng trong 84.000 tháp báu nhỏ ban bố khắp các nước.

Lợi ích của tôn thờ xá lợi:

Xá lợi là những hạt nhỏ, có dạng viên tròn, hình thành sau khi thân thể của người tu đắc đạo được đem hỏa táng. Xá lợi còn có nghĩa là những hạt nhỏ trông giống ngọc trai hay pha lê, được tìm thấy trong tro hỏa táng của một số vị cao tăng Phật giáo mà khoa học hiện đại chưa giải thích được nguyên lí hình thành của các hạt xá lợi này. Tuy nhiên, theo các bậc đạo sư phái Thiền, Tịnh, Luật, Mật của Phật giáo thì xá lợi là kết quả của quá trình tu hành và khổ luyện và là kết quả của quá trình tu dưỡng đạo đức, chỉ xuất hiện ở những người có tấm lòng đại từ đại bi, luôn thể hiện trí tuệ minh triết, mang lại lợi ích cho cả nhơn thiên. Đây là các bảo vật của thế giới Phật giáo, của Tăng Ni, Phật tử. Sự tín ngưỡng và tôn thờ xá lợi giúp cho người Phật tử thăng tiến trên đường tu, có người tôn thờ xá lợi, tín ngưỡng xá lợi Phật như tôn thờ Đức Phật sanh tiền, nên các vị rất tinh tấn tu hành và thêm phần phước huệ rất cao cả.

Khi chiêm bái cùng một viên ngọc xá lợi, nhiều người đã thấy các màu sắc khác nhau, tùy theo nghiệp nặng nhẹ của mỗi người. Tương truyền ngọc xá lợi của Đức Phật có thể biến hóa từ ít thành nhiều, từ nhỏ thành lớn, từ đục thành trong, và tỏa sáng hào quang. Sự biến hóa kỳ diệu này phải do sự thành tâm lễ bái chí thành của người có đạo tâm. Ngài Hư Vân kể rằng: Khi ngài tới lễ xá lợi của Đức Phật tại chùa A Dục, càng lễ thì hào quang từ xá lợi càng lúc càng tỏa rạng. Cũng nhờ thành tâm lễ bái xá lợi mà ngài hết bịnh.

Vào thế kỷ thứ VI, Phật Pháp mới truyền vào Trung Quốc, có hai Ngài Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan từ Trung Ấn sang để truyền bá Phật Pháp. Lúc ấy có Đạo sĩ Chữ Thiện Tín ở núi Ngũ Nhạc không hài lòng, dâng biểu lên nhà vua xin cho thi tài với hai Ngài. Họ để kinh sách của Lão giáo ở đàn phía đông và kinh Phật cùng xá lợi để trên Thất bảo hành điện ở phía tây. Xong rồi hai bên thi triển thần thông đốt kinh sách. Kinh bên Đạo giáo thì cháy, còn kinh Phật thì vẫn nguyên. Lúc ấy xá lợi năm màu chiếu sáng, bay lên hư không, xoay tròn như che trùm cả đại chúng. Vua cùng đại chúng đều hoan hỉ, được điều chưa từng có.

Đời Tam quốc, Ngô Tôn Quyền chưa tin Phật Pháp nên đã chất vấn Ngài Khương Tăng Hội: Sa môn các ngài tu hành theo Phật giáo có những điềm linh ứng gì? Ngài trả lời rằng: “Tuy Phật đã nhập diệt lâu rồi, nhưng xá lợi của Ngài lưu lại vẫn hiển hiện bao điềm linh diệu”. Ngô Tôn Quyền không tin, buộc Ngài phải cầu cho được xá lợi thì mới cho phép kiến lập Tháp Tự, nếu không được sẽ bị trị tội. Vì sự tồn vong hưng thịnh của Phật Pháp, Ngài cùng đại chúng đã đặt một bình đồng trên toà cao, chí thành khẩn cầu xá lợi hiển hiện oai linh. Đến ngày thứ hai mươi mốt, xá lợi đã xuất hiện trong bình chiếu sáng năm màu rực rỡ. Ngô Tôn Quyền tự tay cầm lấy bình chứa xá lợi đổ lên mâm đồng. Hạt xá lợi vừa rơi xuống thì mâm đồng liền bị bể tan. Ngô Tôn Quyền cho để xá lợi lên đe bằng sắt và dùng búa đập. Chỉ thấy đe lún xuống và xá lợi vẫn tỏa hào quang sáng ngời. Thấy điềm linh dị rõ ràng, Ngô Tôn Quyền mới có niềm tin trong Phật Pháp.

Riêng xá lợi răng và xương của Đức Phật thì không có sự biến hóa ít thành nhiều, do vậy bảo tháp thờ xá lợi răng và xương rất hiếm, riêng tháp thờ ngọc xá lợi thì nhiều. Nói chung, tất cả các xá lợi đều có một vai trò quan trọng đối với chúng ta, vì xá lợi là báu vật biểu trưng như Đức Phật còn tại thế. Nếu chúng ta dùng tâm vô nhiễm, cung kính lễ bái, cúng dường, tán thán thì được phước đức vô lượng vô biên. Xá lợi không chỉ là nhân tố tạo nên mọi sự phước đức mà còn là động lực chuyển xoay tâm hồn con người từ hung dữ trở thành hiền lương, từ vô đạo đức trở thành có đạo đức.

Phật tử Việt Nam và các nước tôn thờ xá lợi từ các bậc đại sư tôn túc:

Phật giáo thế giới có viên xá lợi được nhắc nhở và tôn sùng, đó là xá lợi lưỡi của Ngài Cưu Ma La Thập được truyền tụng đến nay gần 2.000 năm.

Cưu Ma La Thập dịch nhiều Kinh từ Phạn ra tiếng Tàu, khoảng 98 Kinh, nay thất lạc chỉ còn độ 50 Kinh. Ngài là người nước Dao Tần, ngày nay gọi là Tân Cương. Cha Ngài là người Ấn Độ, mẹ là công chúa nước Dao Tần. Ngài dịch nhiều Kinh Phật nhất, nên có lời nguyện: Nếu Kinh Ngài dịch ra không sai chánh pháp thì khi lâm chung xin lưu lại chiếc lưỡi để làm chứng tích. Kết quả, Ngài được như ý.

Ngày mùng 01 tháng 11 năm Mậu Thân (1308), Phật Hoàng Trần Nhân Tông viên tịch, vâng theo di chúc, Bảo Sát đã tiến hành hỏa thiêu Ngài ngay tại Am Ngọa Vân. Pháp Loa, tổ thứ hai của Thiền Phái Trúc Lâm đến tưới nước thơm lên giàn hỏa, thu được ngọc cốt và hơn 3.000 viên ngọc xá lợi. Ngọc cốt được an trí vào lăng Quy Đức (hay còn gọi là Đức Lăng), một phần xá lợi thu được lưu giữ tại tháp Phật Hoàng ở Ngọa Vân, phần còn lại được đưa về lưu giữ tại Bảo tháp chùa Tư Phúc trong Đại Nội (cấm thành Thăng Long), sau đó được phân thành nhiều phần lưu giữ ở nhiều nơi để nhân dân và phật tử thờ phụng.

Năm 1964, bị tai nạn chiến tranh, Sư tản cư xuống núi tá túc ở chùa Linh Quang, Gia Định đi học. Đến ngày mùng 10 tháng Chạp năm Giáp Thìn, chùa thiết lễ cúng húy kỵ Đại sư Huệ Nhựt – Trưởng giáo phái Đạo Phật Khất sĩ Đại thừa đã viên tịch. Hòa thượng Trụ trì Thích Phổ Thượng (một trong 10 vị đệ tử của Đại sư) đem những phần xá lợi của Đại sư cho đại chúng chiêm ngưỡng. Đó là lần đầu tiên lúc còn làm Sa di Sư được chiêm ngưỡng xá lợi xương của vị Trưởng Giáo phái Khất sĩ Đại thừa.

Năm 1973, khi Thượng tọa Thích Giác Đồng về Quan Âm tu viện tu tịnh, được nghe Thượng tọa kể lại khi Sư Trưởng lão Trưởng giáo đoàn Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam Thích Giác An viên tịch, lúc trà tỳ còn lại nhiều viên xá lợi, trong đó có một viên xá lợi màu trắng trong như lưu ly, tôn thờ tại tịnh xá Trung Tâm, Phú Lâm.

Ngày 15/02/Đinh Mùi (1967), sau khi cải táng nhục thân Đức Pháp chủ Khánh Anh tại An dưỡng địa, Phú Lâm, Đại đức Thích Liên Phương, húy Như Lý, hiệu là Bạch Vân là vị đệ tử cuối cùng của Đức Pháp chủ, có đem một ít xá lợi xương của Đức Pháp chủ về tôn thờ tại tịnh thất Bảo Tạng – Quan Âm tu viện cho đến ngày nay. Đại Đức Thích Liên Phương là người có công lớn trong việc sáng lập Phật học đường Tây Phương Bồng Đảo tại Tổ đình Linh Sơn núi Dinh, Bà Rịa năm 1961. Hòa Thượng Giác Quang (lúc còn làm Sa di) năm 1964 đã tốt nghiệp hạng Nhất đồng hạng với Sư Từ Pháp tại Phật học đường.

Ngày 11/06/1963, Hòa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu giữa ngã tư đường Lê Văn Duyệt – Phan Đình Phùng để bảo vệ Phật giáo. Sau khi tự thiêu, nhục thân được hỏa táng lại nhưng trái tim của Hòa Thượng thì không cháy và vẫn còn nguyên, về sau được đặt trên một bình pha lê tôn trí tại chùa Xá Lợi. Giới Phật tử coi đây là một điều thiêng, một biểu tượng xá lợi trái tim của lòng trắc ẩn và tôn vinh Hòa Thượng thành một vị Bồ tát.

Pháp sư Hoằng Huyền, Singapore, Hòa Thượng Phó Hội trưởng Hội Phật giáo Ngũ Đài Sơn; Pháp sư Khoang Năng, Trụ trì chùa Tây Sơn, Trung quốc viên tịch gần đây cũng để lại hàng chục vạn viên xá lợi trong như lưu ly và màu xanh lục. Pháp sư Viên Chiếu, Trụ trì chùa Pháp Hoa, tỉnh Thiểm Tây viên tịch lúc 93 tuổi, trà tỳ còn lưu lại trái tim.

Ngày 20/10/Quý Tỵ (2013), Hòa Thượng Thích Thiện Lực, Trụ trì chùa Phổ Tịnh (môn phong Tịnh độ Non bồng), ấp Bình Thảo, xã Tân Bình, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai viên tịch, thiêu hóa được nhiều xá lợi màu xanh lục, môn nhơn pháp quyến cúng dường tôn thờ tại chùa Phổ Tịnh và Quan Âm tu viện.

Ngày nay, không chỉ riêng trong nhà chùa trà tỳ chư tôn túc Tăng Ni viên tịch có xá lợi, mà trong giới Phật tử phát tâm tu hành ăn chay trường, niệm Phật, tụng kinh đại thừa, tu hành tinh tấn, khi lâm chung đem thiêu hóa cũng tồn tại một số phần xương cốt, những viên xá lợi đủ màu sắc… Sự việc nầy đã làm dấy lên làn sóng thờ xá lợi trong chốn thiền lâm trong và ngoài nước cũng như tại gia trung của Phật tử.

Tôn thờ xá lợi tại Quan Âm tu viện

Năm 1969, tại Quan Âm tu viện, Sư được diện kiến, đảnh lễ, tôn thờ và giữ gìn xá lợi. Chỉ có 2 hạt tại tịnh thất Bảo Tạng, nơi Đức tôn sư Thiện Phước – Nhựt Ý sanh tiền lưu trú và thuyết giảng nhiều nhất dành cho chư Tăng Quan Âm tu viện và môn phong về pháp tu niệm Phật cầu sanh Tịnh độ.

Ngày mùng 02 tháng 06 năm Canh Tuất (1970), trời đổ mưa nhiều, Sư hứng nước giữa trời mưa bằng một chén sứ sạch, đem xá lợi Phật thử “thật hay giả”, nếu “thật” thì nổi trên mặt nước, “giả” thì chìm. Lạ thay xá lợi tôn thờ tại tịnh thất Bảo Tạng như có chất “dầu” nổi trên mặt nước. Ngọc xá lợi thờ ở tịnh thất Bảo Tạng do nhà sư Anando được Giáo hội cử đi du học nước Sri Lanka cung thỉnh đem về cúng dường Quan Âm tu viện. Sư Anando viên tịch năm 2001, nhà chùa phụng thờ Sư tại Tổ đình Linh Sơn chân núi Dinh.

Từ năm 2.000, đón chào thiên niên kỷ mới, tại Quan Âm tu viện, Ni trưởng Thích nữ Huệ Giác, chư Tăng Ni nhận được nhiều sự phát tâm cúng dường xá lợi đức Phật từ Phật tử Bình Dương, Tp.Hồ Chí Minh, Bà Rịa Vũng Tàu, các nước Myanmar, Ấn độ, Mỹ, Úc…

Lễ rước xá lợi ngày 15/07/Canh Dần (2010) thật quy mô, hoành tráng, dưới sự hướng dẫn của Hòa Thượng Giác Quang, chư Tăng Ban Nghi lễ lo lập bàn hương án tại trung tâm Quan Âm tu viện, tiếp đến trải một lớp đệm, chiếu trải lên đệm, vải vàng trải lên chiếu từ bàn hương án đến nơi tôn thờ xá lợi khoãng 120 mét, vị Sư Thiện Thanh đi đầu cầm kiểng dẫn đường, kế đến vị Sư Vạn Hùng bưng khai lễ, Thầy Thiện Lễ xướng ngôn, Sư Quảng Đại, Sư Định Chơn chuông trống bát nhã, Hòa Thượng Giác Quang tiếp nhận xá lợi từ tay Phật tử Tâm Huệ, Ngọc Hoa dâng cúng, chầm chậm bước đi, đi theo sau là chư tôn đức Tăng Ni, Phật tử cả trăm vị, mỗi người đều niệm danh hiệu: Nam mô Đại Hạnh Phổ Hiền Vương Bồ tát… Khi đến nơi khai lễ đựng xá lợi được tôn trí lên bàn, Hòa Thượng nói ý nghĩa xá lợi, tôn thờ xá lợi, cảm tạ công đức Phật tử cúng dường xá lợi. Tiếp đến Hòa Thượng chủ trì lễ an vị xá lợi, đảnh lễ xá lợi, chiêm ngưỡng xá lợi. Cuộc lễ rước xá lợi diễn biến từ 8 giờ sáng đến 11 giờ 30 trưa mới chấm dứt, sau đó là lễ cúng dường trai phạn chư Tăng Ni.

Người Phật tử cần có sự tín ngưỡng chân chính, gọi là chánh kiến, chánh tư duy, nhìn thấy xá lợi răng, tóc, móng của Phật, hay các di vật của chư thánh Tăng, Thầy Tổ, tỏ lòng tôn kính phụng thờ, đó là xá lợi. Có chánh nghiệp thì không ngụy tạo xá lợi theo tri kiến phàm phu để hướng dẫn mọi người tín ngưỡng thì việc tôn thờ xá lợi có ích lợi, tăng phước tăng huệ. Sự tôn thờ xá lợi thuộc về tín ngưỡng tâm linh đối với Đức Phật của Bạn, các Bạn tin có xá lợi thì xá lợi xuất hiện và xuất hiện thật nhiều vô số với các Bạn; ngược lại thì dù có xá lợi xương cốt thật của Phật Thích Ca Mâu Ni đi nữa cũng không linh ứng gì Bạn ạ!

HT Thích Giác Quang

Tìm Hiểu Về Xá Lợi Phật

Trong một chuyến du lịch đến Hồng Kông, lần đầu tiên tôi nhìn thấy những viên đá kỳ lạ ở trong phòng tối của viện bảo tàng. Nó nằm trong pho tượng Phật bằng đồng và bao quanh bởi kính chống đạn. Nó được đặt trang trọng trong những chiếc chén vàng và nền nhung, những viên ngọc sáng bóng.

Nheo một mắt, tôi có thể nhìn thấy những gì trông giống như những tinh thể màu rất đẹp. Sau đó, trong bữa trưa chay ở tu viện liền kề, tôi có hỏi mọi người về những viên ngọc đó. Nhưng tiếc rằng không có người bạn nào của tôi biết nhiều về nó. Tuy nhiên, sự quan tâm của tôi về những “viên ngọc của con người” đã được khêu gợi.

Ngọc xá lợi là gì?

Xá lợi hay xá lị (sarira – sharira) là một từ vay mượn từ tiếng Phạn, ban đầu có nghĩa là “thân thể”, nhưng khi được sử dụng trong các văn bản Phật giáo nó có nghĩa là “di vật”. Thuật ngữ ringsel là một từ vay mượn từ tiếng Tây Tạng. Cả hai thuật ngữ này đều nói về những viên ngọc xá lợi, mặc dù theo một số giải thích, ringsels là một tập con của sariras.

Ban đầu khi nhắc đến xá lợi, người ta thường nghĩ đến xá lợi của Đức Phật Thích Ca. Về sau, một số nhà sư, những vị thầy đáng kinh sau khi chết cũng đã để lại những viên ngọc kỳ lạ này. Đây được cho là biểu hiện trình độ tâm linh của các vị tu sĩ Phật giáo.

Xá lợi là những hạt nhỏ được tìm thấy sau khi thân thể của các vị tu sĩ được hỏa táng. Tại Hàn Quốc, những mảnh xương không bị cháy được đặt sang một bên để nghiền nhỏ, trộn với bột rồi rải xuống đất hay dòng sông. Tuy nhiên, một số viên đá kỳ lạ được gọi là xá lợi nổi bật như những viên ngọc trai, hổ phách hoặc tinh thể màu sẽ được giữ lại.

Thật thú vị, dường như những viên xá lợi không thuộc về cơ thể, nó không phải là xương hay xác thịt! Thay vào đó, ngọc xá lợi được xem như là sự chưng cất cuối cùng của một đời sống Phật giáo sống động, một sự biểu lộ vật chất của đạo đức, trí tuệ và lòng tận tụy.

Người ta tin rằng, vẻ đẹp của các hạt xá lợi phụ thuộc vào mức độ chứng ngộ mà các bậc thầy đã đạt được. Các viên ngọc xá lợi thường được trưng bày trong một cái bát, chén thủy tinh hoặc tòa tháp bằng vàng nhỏ cũng như được trang trí bên trong bức tượng của các cao tăng đã qua đời.

Trong một số trường hợp đặc biệt, hạt xá lợi được cho là phát triển từ cơ thể người sống, thường là ở đỉnh cao của một kinh nghiệm tôn giáo.

Ví dụ, một tu sĩ Tây Tạng có tên là Choying Dorje Rinpoche đã dành 45 năm để hành thiền về tình yêu và niềm vui. Vào cuối đời, khoảng 2.000 viên ngọc xá lợi được cho là xuất hiện trên tóc của ông ấy.

Tùy thuộc vào phần nào của cơ thể mà xá lợi phát triển, màu sắc và kích cỡ có thể khác nhau, mỗi cái có một cái tên truyền thống khác biệt.

Giống như bất kỳ di vật tâm linh khác, rất nhiều câu chuyện huyền bí đã được chia sẻ xung quanh nó. Ngọc xá lợi được biết đến như một viên ngọc bí ẩn nhất thế giới. Nó có thể lớn hơn hoặc nhỏ đi tùy thuộc vào sự tinh khiết của người đang giữ nó. Các Phật tử tin rằng, khi được đặt trên đầu, ngọc xá lợi có khả năng chữa lành bệnh tật và thanh lọc cơ thể.

Giả thuyết về sự hình thành xá lợi

Theo TS. Đỗ Kim Cường được chia sẻ trên báo Công an chúng tôi hiện có ba giả thuyết về sự hình thành các hạt xá lợi là:

Sức mạnh tinh thần, trí tuệ và lòng từ bi của các bậc cao Tăng kết thành xá lợi sau khi chết

Thói quen ăn chay trường trong nhiều năm và ngồi thiền hấp thụ năng lượng vũ trụ

Bệnh lý

Tuy nhiên, các giả thuyết này gặp nhiều phản biện như: Tại sao nhiều vị cao Tăng khác cũng ngồi thiền, ăn chay…mà không có xá lợi khi hỏa táng?

Điều này đã được hé lộ khi ba nhà vật lý Holden, Phakey và Clement thuộc đại học Monash, bang Victoria, Úc, thực hiện các nghiên cứu.

Trong quá trình hỏa táng, các tinh thể hình dạng khác nhau sẽ được hình thành nếu hỏa táng ở nhiệt độ thích hợp. Trên tạp chí Khoa học pháp y quốc tế số tháng 6/1995, họ cho biết đã dùng kính hiển vi điện tử quét để theo dõi quá trình tinh thể hóa xương đùi của những người từ 1 tới 97 tuổi trong dải nhiệt độ 200 – 1.600°C trong khoảng thời gian 2, 12, 18 và 24 giờ.

Kết quả là sự tinh thể hóa các khoáng trong xương (chiếm 2/3 trọng lượng xương) bắt đầu xuất hiện từ nhiệt độ 600°C với nhiều hình dạng khác nhau: hình cầu, lục giác, hạt nhỏ và hình dạng không đều.

Các hạt nhỏ đó có thể kết tinh thành các khối lớn hơn trong khoảng 1.000 – 1.400°C. Và khi nhiệt độ đạt tới 1.600°C, các khối tinh thể bắt đầu tan rã. Như vậy, nếu điều kiện hỏa táng thích hợp, xá lợi có thể xuất hiện do quá trình tinh thể hóa các khoáng vốn có rất nhiều trong xương người.

Vậy tại sao người bình thường không có xá lợi? Chúng ta có thể trả lời bằng cách hỏi ngược lại: Vậy tại sao không phải vị cao Tăng nào cũng có xá lợi? Câu trả lời là nếu nhiệt độ hỏa táng ban đầu khoảng 600°C, sau đó tăng lên 1.000°C, nhiều khả năng các khối tinh thể sẽ xuất hiện, miễn là nhiệt độ không quá cao.

Như vậy việc hình thành xá lợi có thể là sự kết hợp của cả ba giả thuyết: ăn chay và ngồi thiền; sỏi bệnh lý; và sự tinh thể hóa xương khi điều kiện hỏa táng phù hợp. Theo TS. Cường, đây là giả thuyết thuyết phục nhất mà chúng ta có hiện nay.

Góc nhìn khoa học về ngọc xá lợi

Tất nhiên, những người hoài nghi đã đưa ra rất nhiều giải thích khoa học về xá lợi. Chúng có thể chỉ là những khoáng chất tự nhiên tích tụ trong cơ thể con người (như sỏi mật hay sỏi thận) mà chúng ta thường không quan tâm đến việc tìm kiếm trong lò hỏa táng. Hoặc chúng có thể là cấu trúc tinh thể hình thành theo các điều kiện nung nóng dưới nhiệt độ cao.

Có bằng chứng cho thấy, trong một số điều kiện nhiệt độ, xương người có thể hình thành cấu trúc tinh thể. Ngọc xá lợi được cho là xuất hiện sau khi hỏa táng, vì vậy, đây có thể là cơ chế mà chúng được tạo ra. Trong một phân tích hóa học, xá lợi bao gồm các thành phần của xương và đá, nhưng cũng có tóc, thịt và máu kèm theo.

Nhà vật lí thuộc Đại học Stanford, William A. Tiller và một nhóm các nhà nghiên cứu khác đã tìm hiểu về nguồn năng lượng xung quanh các hạt xá lợi.

Nisha J. Manek đã báo cáo nghiên cứu tại “Hội thảo về Khoa học Tâm thức” thường niên tại Đại học Arizona vào năm 2012. Tiến sĩ Manek đã hoàn thành chương trình đào tạo đặc biệt tại Đại học Stanford. Bà là một nhà khoa học lâu năm, và là thành viên của khoa y học Mayo trước khi bắt đầu công việc của mình tại Viện nghiên cứu khoa học thần kinh của Tiller.

Manek không phải là một tín đồ Phật giáo đã giải thích những gì mà bà cảm nhận khi tiếp xúc với ngọc xá lợi:

“Tôi cảm thấy một bức xạ hữu hình của năng lượng tinh tế chảy từ các viên xá lợi hướng đến trung tâm trái tim tôi. Nó mang tính cá nhân và riêng tư, nhưng nó cho thấy một sự “Nhất thể” hay đồng nhất với mọi người và vạn vật. Không có thứ gì tương tự như vậy trong các trải nghiệm thông thường.”

Các nhà nghiên cứu đã sử dụng các phương pháp do Tiller phát triển để đo lường một cách khách quan những gì mà Manek cảm nhận. Họ muốn biết chắc nguồn năng lượng đó xuất phát từ các hạt xá lợi hay chỉ là một nhận thức chủ quan của Manek.

Giáo sư Tiller đã nghiên cứu các tác động vật lý có thể ảnh hưởng đến ý thức con người. Ông cho rằng, có hai loại vật chất. Một là loại chúng ta có thể đo lường với các cảm biến thông thường của chúng ta. Ông mô tả chất này ở cấp độ nguyên tử điện / phân tử. Loại kia tồn tại trong không gian giữa các nguyên tử và phân tử.

Con người thường không thể cảm nhận được loại vật chất thứ 2 mà Tiller mô tả là có trạng thái năng lượng khí động lực học cao và vô cùng mạnh mẽ. Tiller nói rằng, ông đã tìm ra cách để phát hiện ra chất này, nhưng chỉ khi nó giao thoa hoặc tương tác với các loại nguyên tử điện / phân tử chúng ta có thể nhận biết và đo lường. Tuy nhiên, điều này không phải lúc nào cũng xảy ra vì hai chất này thường tồn tại tách biệt.

Ý đồ của ông là kích hoạt một loại vật chất trung gian được gọi là hạt deltrons. Các deltron sẽ tạo thuận lợi cho sự tương tác giữa hai loại vật chất này.

Nghiên cứu của Tiller và Manek về ngọc xá lợi cho thấy, những di vật này đã bị ảnh hưởng bởi ý nghĩ của con người.

Mặc dù chúng tôi không thể nghiên cứu chi tiết các vật thể để có thể đưa kết luận chính xác. Nhưng dường như có một loại năng lượng nào đó tương tác qua lại giữa xá lợi và con người.

Trong trường hợp của xá lợi Phật trải qua hàng ngàn năm, lòng tôn kính đã giữ nó tồn tại, nếu không, có thể di vật sẽ biến mất.

Báo cáo cũng cho biết, các phân tử, nguyên tử trong không gian xung quanh các hạt xá lợi được sắp xếp chặt chẽ hơn môi trường bình thường.”

Các nghiên cứu của GS Tiller và bác sĩ Manek cho thấy, hạt xá lợi có thể tồn trữ một năng lượng nhất định và có thể ảnh hưởng đến người thờ phượng, nhưng nguồn năng lượng này một phần cũng có thể là do người thờ phượng truyền sang chúng.

Ngọc xá lợi vẫn còn là một bí ẩn. Có vẻ như việc hỏa táng của những người bình thường không để lại những hạt kỳ lạ như vậy. Ngày nay, Các trang mua bán trên mạng tràn ngập những vật được cho là xá lợi được bán với giá chỉ 10 đô la. Một tổ chức Phật giáo đã bán bộ sưu tập xá lợi với giá 4.000 USD để duy trì hoạt động.

Lợi ích khi chiêm bái và tôn thờ xá lợi

Theo nhiều bậc đạo sư thì xá lợi là kết quả của quá trình tu hành khổ luyện nhiều năm. Những bậc cao Tăng có tấm lòng từ bi vĩ đại cũng như trí tuệ minh triết mới kết tụ thành xá lợi.

Do đó, Phật tử nào có dịp chiêm bái hay thỉnh xá lợi về tôn thờ sẽ giúp ích rất nhiều trên con đường tu tập. Xá lợi được cho hiện thân của chư Phật, của các bậc cao Tăng nên Phật tử tôn thờ xá lợi sẽ nhìn đó mà noi gương tu hành tinh tấn.

Ngoài ra, khi thỉnh xá lợi về nhà để tôn thờ thì không gian nhà sẽ hấp thụ được nguồn năng lượng vô cùng tích cực và bình an từ viên xá lợi lan tỏa ra. Gia chủ, vợ chồng con cái trong nhà đều hòa thuận, mạnh khỏe và yên vui.

Theo nhiều người kể lại, các viên ngọc xá lợi có thể biến hóa thành nhiều màu khác nhau, từ nhỏ thành lớn, đục trành trong khi đem về nhà thờ một khoảng thời gian. Sự biến hóa kỳ diệu này được nhiều người tin rằng đến từ sự thành tâm lễ bái cũng như tinh tấn tu tập của gia chủ.

Ngôi chùa có nhiều viên xá lợi nhất Việt Nam

Hiện nay ở Việt Nam ta, ngôi chùa tôn thờ nhiều viên ngọc xá lợi nhất là chùa Viên Đình ở xã Đông Lỗ, Ứng Hòa, Hà Nội. Đây được xem là bảo tàng xá lợi Phật và thánh Tăng lớn nhất và độc đáo nhất Việt Nam, với hơn 30 ngọn tháp chứa đựng hàng ngàn viên xá lợi do nhiều trung tâm Phật giáo trên thế giới trao tặng.

Mỗi tháp chứa hàng chục đến hàng trăm xá lợi to nhỏ khác nhau, từ xá lợi máu, xá lợi tóc, xá lợi xương… của các vị cao tăng Phật pháp, với nhiều xuất xứ khác nhau đến từ 8 quốc gia trên thế giới. Trong đó phải kể đến viên xá lợi quý hiếm của Phật Thích Ca được thỉnh từ Nepal do Hòa thượng Thích Huyền Diệu cúng dường.

Theo lời trụ trì Thích Chơn Phương, xá lợi là hiện thân kỳ diệu của Đức Phật và các vị cao tăng đắc đạo, nơi nào có xá lợi thì đất đai ở đó màu mỡ, cây cối tươi tốt, dân chúng no ấm, đủ đầy. Tùy theo công phu tu tập và sinh khí mỗi vùng mà các hạt xá lợi mang màu sắc khác nhau. (Theo btgcp.gov.vn).

Nguồn gốc xá lợi Phật

84.000 di vật trong đó có nhiều viên xá lợi được tìm thấy sau khi hỏa táng thân thể của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Năm 259 TCN, vua Asoka (A Dục Vương) thống nhất các quốc gia láng giềng và xem Phật giáo là tôn giáo chính. Ông tổ chức Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ 3 để thu thập, biên tập và xuất bản các giáo lý của Đức Phật.

Ông cũng quyết định đưa các di vật và xá lợi Phật đến các khu vực khác nhau trong và ngoài nước để phổ biến Phật giáo trên toàn thế giới.

Vào năm 240 TCN, một nhóm gồm 18 nhà sư và các tín đồ đã mang 19 phần di vật đến Trung Quốc. Trong hành trình của họ, Đức Phật trong hình thái tinh thần của mình đã nói với họ rằng họ phải giấu các di vật đi, và chỉ để lộ sau khi người Trung Quốc chấp nhận Phật giáo. Các nhà sư sau đó theo hướng dẫn và chôn các hạt xá lợi Phật trong “ngôi mộ thiêng liêng”.

Họ đến Trường An và gặp Tần Thủy Hoàng. Thật không may, họ bị cáo buộc là “gây rối loạn trong quần chúng và âm mưu phá hoại vương triều”. Triều đình đã đốt tất cả các kinh điển và xử lý chúng như rác.

Sau đó, một vị tướng trên trời (Vajra trong tiếng Phạn) đột nhập vào nhà tù và giải cứu 18 người. Họ quyết định chia thành bốn nhóm và truyền bá đạo Phật trong bí mật theo bốn hướng với thủ đô Trường An là trung tâm.

Họ hẹn gặp nhau hàng năm tại “ngôi mộ thiêng liêng” vào ngày 8 tháng 4 âm lịch, tức là ngày sinh của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Các nhà sư báo cáo, trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm của họ trong việc giảng dạy Phật Pháp.

Các nhà sư chỉ có thể truyền dạy giáo pháp bằng miệng vì các kinh điển đã bị tiêu hủy. Cuối cùng, cái chết của họ đã kéo theo bí mật về “ngôi mộ thiêng liêng” cất giấu những viên xá lợi Phật. Phật giáo đã không thể đạt được một nền tảng vững chắc ở Trung Quốc tại thời điểm đó. Những viên xá lợi chỉ được tìm thấy vài trăm năm sau khi Phật giáo được chấp nhận tại quốc gia rộng lớn này.

Ngày nay, nhiều Phật tử từ Đông cho đến Tây bán cầu thường chiêm ngưỡng xá lợi, rước xá lợi, cung thỉnh xá lợi, đảnh lễ xá lợi và xây tháp cúng dường xá lợi Phật để bày tỏ lòng tôn kính.

Xá Lợi Có Giúp Trừ Tà Ma Không? Làm Thế Nào Để Phân Biệt Xá Lợi Thật Và Giả?

VẤN: Con được biết xá lợi là vô cùng thiêng liêng và mầu nhiệm cùng năng lực bất khả tư nghì. Con đọc kinh sách cho biết xá lợi đi đến đâu là mang lại điều an lạc, thịnh vượng đến đó và xá lợi là rất quý. Nhưng hiện nay con thấy đâu đâu cũng có xá lợi, cứ xoay qua xoay lại là nghe tin một người nào đó đã được vãng sanh, thiêu tro cốt lại có xá lợi, hay là tu hành bệnh tật thế nào rồi thiêu hóa cũng có xá lợi nhiều màu rất đẹp. Con cũng được tặng xá lợi và thờ ở nhà. Con phân vân có phải năng lực của xá lợi là vô cùng lớn như kinh sách nói không? Làm thế nào để biết đâu là xá lợi thật, đâu là xá lợi giả? Nếu thờ xá lợi trong nhà hay giữ xá lợi làm mất có bị mang tội hay không? Xá lợi phải bỏ trong tháp hay nên trang trí sắp đặt thờ ở đâu là đúng nhất? Vì sao xá lợi có thể nhân đôi sinh ra nhiều xá lợi khác? Ai mới đủ khả năng để thờ và lưu giữ xá lợi ở nhà? Xá lợi có giúp trừ tà ma không? Con xin cảm ơn Sư. ĐÁP: I .

Xưa nay người Phật tử chúng ta thường nghe noi đến hai chữ Xá Lợi trong chùa, trong tịnh xá, nhất là các chùa Phật giáo Nguyên Thủy thuộc Nam tông Phật giáo. Người Phật tử Phật giáo Bắc tông ít nghe qua từ ngữ nầy. Điều nầy cũng đúng thôi, vì Phật giáo Nam tông giữ gìn những gì thuộc di sản văn hóa của Phật giáo xưa. Quan điểm của Phật giáo Nam tông, chính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chính là Đức Phật thật trong cuộc đời, ngài có các lịch trình tu chứng, đắc đạo, hành đạo cho đến khi niết bàn, chư đệ tử đem hỏa thiêu còn tồn lại những tro tàn, xương cốt gọi là Xá Lợi.

Xuất xứ ý nghĩa Xá Lợi

Trước nhất chúng ta bàn về ý nghĩa hai chữ Xá Lợi (Saririkadhâtu, cũng gọi Sirìra), Xá Lợi hay Xá Lỵ nghĩa đen là tử thi, di cốt, nghĩa bóng chỉ thân , thân cốt, di thân, nghĩa trắng là tro tàn, thông thường chi di cốt của Đức Phật, về sau từ ngữ này còn chỉ những tro tàn, mảnh xương của các vị cao tăng sau khi hỏa thiêu…

Theo Phật Quang đại từ điển, Đài Bắc, Tử Di biên soạn, Phật Quang Sơn xuất bàn 1989 thì Xá Lợi còn có nghĩa là di cốt: dịch ý là thể, thân, thân cốt, di thân. Thông thường xá lợi dùng để chỉ cho di cốt của Phật, nên gọi là Phật cốt hay Phật xá lợi. Chữ này về sau cũng dùng để chỉ cho phần xương đầu của các bậc cao tăng sau khi viên tịch hỏa thiêu còn lại.

Phẩm “Xả Thân” trong kinh Kim Quang Minh quyển 4 (Đại Chánh Tạng 16, trang 354, quyển thượng) ghi: “Xá Lợi là thành quả của sự tu hành giới định tuệ, giữ giới trong sạch, không dễ gì có được, đó là phước điền tối thượng”. Là một công trình tu chứng của chính Đức Phật Bổn sư Thích Ca, suốt hành trình 49 năm cô đọng tinh thần từ bi thương chúng sanh, dùng trí tuệ siêu xuất mà cứu vớt muôn loài không tiếc thân mạng và thành tựu đại nguyện từ vô lượng kiếp trước cho đến hôm nay.

Xá Lợi là những phần thiêng liêng cao quý của Đức Phật, mà Đức Phật đó là Phật Thích Ca Mâu Ni, chúng ta tôn kính và đảnh lễ xin tôn kính đó dành cho Đức Phật Thích Ca và các bậc thánh tăng, cao tăng đệ tử của Phật tu đắc đạo thị tịch.. Xá lợi là phần kết tinh còn lại sau khi làm lễ trà tỳ (hỏa thiêu) nhục thân của Đức Phật và các vị thánh tăng cao tăng. Đối với người thường, sau khi thiêu xác, chỉ còn tro và phần xương cháy chưa rã có gọi là Xá Lợi để được đảnh lễ hay không xin nhường cho các tu sĩ nhà Phật, các bậc thiền gia chân chánh và những người con Phật phân định.

Xá Lợi tại các quốc gia Phật giáo tiêu biểu

Phật giáo đến các Vương Quốc Srikanca, Myamar, Tháiland, Lào theo Nam Tông, đến Trung Hoa, Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam và cận đại thuộc Bắc Tông có những vị Thánh Tăng và các vị Đạo Sư đắc đạo, viên tịch sau khi làm lễ trà tỳ, đệ tử cũng thâu được nhiều Xá Lợi. Tất cả những đồ dùng là di tích của Phật và các vị Thánh Tăng như y, bình bát, tích trượng, v.v. đều gọi là Xá Lợi.

Tại Việt Nam, Hòa Thượng Thích Quảng Đức (1897-1963), Trụ trì chùa Quan Thế Âm, Phú Nhuận, Saigon và Long Khánh tự, xã Long Khánh, quận Cai Lậy tỉnh Định Tường, nay là tỉnh Tiền Giang đã tự thiêu tại ngã tư Phan Đình Phùng – Lê Văn Duyệt Saigon, nay là Tp.Hồ Chí Minh, để bào vệ Phật giáo bị chánh quyền chế độ cũ đàn áp, không cho Tăng Ni tu hành, bắt bớ tù đày, không cho treo cờ Phật giáo, tổ chức đại lễ Phật đản lộ thiên và cầu nguyện thế giới hòa bình, cầu đất nước Việt Nam chấm dứt chiến tranh ngày 11/6/1963. Sau khi thiêu hóa nhiều công xuất điện trái tim của ngài vẫn không cháy, Ủy ban liên phái bảo vệ Phật giáo, chư Tăng Ni, đồng bào Phật giáo bấy giờ gọi trái tim của Hòa Thượng Thích Quảng Đức là “trái tim bất diệt”.

Tại Myanmar, người ta còn thờ tóc và móng tay của Đức Phật khi Ngài còn tại thế đã cắt cho hai vị đệ tử tại gia đầu tiên. Trong kinh tạng Pali thường đề cập đến Xá Lợi Xương, Xá Lợi Răng và Ngọc Xá Lợi.

Ngài Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập (344-413) thuộc xứ Tân Cương, nhà dịch thuật lỗi lạc Trung Quốc, thời Dao Tần ngài học kinh A Hàm tai Kashmir, được phong làm Quốc sư cho nhà Dao Tần về sau dịch tam tạng thành điển từ tiếng Phạn ra tiếng Hán. Khi viên tịch, các môn đệ đem thiêu hóa còn tồn tai cái lưỡi đỏ như sen hồng. (Tiểu sư Cưu Ma La Thập – Thư viện Hoa Sen)

Năm Dân Quốc thứ hai mươi chín, Đại sư Ấn Quang biết mình sắp viên tịch, ngày 24 tháng 10, Ngài triệu tập chư Tăng Ni và Cư sĩ về chùa Linh Nham. Trong buổi họp mặt suy cử Hòa thượng Diệu Chơn kế nhiệm Trụ trì, dặn dò các việc mai sau, và bảo: “Pháp môn niệm Phật không có chi đặc biệt lạ kỳ. Chỉ cần khẩn thiết chí thành, thì không ai chẳng được Phật tiếp dẫn”. Qua ngày mùng 4 tháng 11, Đại sư cảm bệnh nhẹ, song vẫn tinh tấn niệm Phật. Niệm xong, bảo đem nước rửa tay, rồi đứng lên nói: “Phật A Di Đà đã đến tiếp dẫn, tôi sắp đi đây. Đại chúng phải tin nguyện niệm Phật cầu về Tây Phương!”. Nói đoạn, bước lại ghế ngồi kiết già, chấp tay trì danh theo tiếng trợ niệm của đại chúng rồi viên tịch. Lúc ấy, Đại sư 60 hạ lạp, thế thọ 80 tuổi. Rằm tháng hai năm sau, nhằm ngày Phật nhập Niết Bàn, cũng vừa đúng kỳ Đại sư vãng sanh được một trăm ngày. Hàng đạo tục các nơi hội về Linh Nham trên hai mươi ngàn người, sắp đặt lễ trà tỳ. Lúc ấy bầu trời hốt nhiên sáng tạnh trong trẻo. Khi Chân Đạt hòa thượng cầm đuốc cử hỏa, khói bay lên trắng như tuyết, hiện ra ánh sáng năm sắc. Hôm sau Diệu Chơn Hòa Thượng cùng đại chúng đến nơi khám nghiệm, thấy xá lợi hiện ra nhiều hình dáng, đủ các màu, có thứ gồm ngũ sắc, gõ vào phát ra âm thanh trong trẻo.

Xá Lợi thường được gọi là Ngọc Xá Lợi là phần tủy kết tinh trở lại thành những viên có hình thể hơi tròn và cứng, lớn nhỏ khác nhau. Viên lớn như hột đậu hột bắp; viên nhỏ như hột gạo hột mè., nhỏ nữa như hột cải. Xá Lợi có nhiều màu sắc và sáng đục khác nhau. Thông thường Xá Lợi có màu trắng, đỏ, hồng, xanh và vàng, có loại trong như thủy tinh, có loại trắng ngà như hột gạo, có loại phát ra ánh sáng nhẹ nhàng như pha lê, cũng có loại màu sáng nhuận như san hô. Ngọc Xá Lợi là thành quả của công phu tu hành giữ gìn giới luật và công năng tu tập thiền quán cao thâm của Đức Phật. Ngoài ra còn có Xá Lợi của các bậc cao tăng tu hành dày công với Phật pháp chứng nghiệm vãng sanh, chắc chắn rất nhiều trong thế giới Phật Pháp.

Chùa Linh Quang, Bà Chiểu, Gia Định, có tháp Xá Lợi Đại sư Huệ Nhựt, thế danh Hồ Cang, tự Hồ Chí Thạnh (1903-1950), Tăng Trưởng Đạo Phật Khất sĩ Đại thừa, ngài đã bị một số phần tử sát hại, viên tịch vào năm 1950, thời kỳ chiến tranh Việt Pháp sắp chấm dứt. Khi hỏa thiêu xương cốt còn nguyên vẹn, được tôn trí thờ phượng tại Pháp Tháp. Mỗi năm đến ngày cúng Tổ, Hòa Thượng Trụ trì Thích Phổ Thượng đem Xá Lợi Tổ sư cho mọi người chiêm ngưỡng. Tôi kể từ khi xuống núi năm 1965 có tạm trú chùa Linh Quang tu học, đi học tai Phân khoa Đại học Vạn Hạnh -Thánh đường Cơ Đốc Phục Lâm, ngã tu Phú Nhuận – Võ Di Nguy, nhưng chỉ một năm, sau đó về cư trú tại Việt Nam Quốc Tự tiếp tục đi học cho đến khi về tại Quan Âm tu viện, năm 1968.

Năm 1969, Tôi (Thích Giác Quang) có đến thăm Bạn đạo là Sư Trị sự Giáo đoàn V, Thượng Tọa Thích Giác Hà, tu chung một cốc tịnh, tại núi Bồng Lai (hiện nay là Hòa Thượng Trưởng Giáo đoàn V) thuộc Giáo hội Tăng già Khất sĩ tại Trung tâm Phú Lâm-Saigon được Thượng Tọa cho chiêm ngưỡng Xá Lợi của Đức Thấy Giác Lý, Trưởng Giáo đoàn V đã viên tịch. Trong cuộc đời tu của Tôi, đây là lần thứ hai Tôi được chiêm ngưỡng Xá Lợi các bậc Cao tăng viên tịch

Tại Hà Nội, huyện Thường Tín, xã Nguyễn Trãi, thôn Gia Phúc có chùa Đậu, thờ Bà Đậu (602-939), tức nữ thần Pháp Vũ, là một trong tứ pháp (Pháp Vân, Pháp Điện, Pháp Lôi). Vào thề kỷ 17 Thiền sư Vũ Khắc Minh và Thiền sư Vũ Khắc Trường là hai chú cháu xuất gia tu hành đắc đạo, để lại toàn thân xá lợi, thân không có chôn cất, đốt không cháy, ngâm trong nước không tan. Tượng thiền sư Vũ Khắc Minh đã được tu bổ với các kỹ thuật truyền thống như: bó, hom, lót, thí, mài và thếp với các nguyên liệu như sơn ta, vải màn, giấy dó, mạt cưa và đất. Tổng số lớp sơn và thếp vàng là 14 lớp. Pho tượng Vũ Khắc Trường đã bị hỏng nặng vào khoảng năm 1983 sau trận lụt lớn.. Tượng đã được các nhà nghiên cứu sắp xếp lại những xương bị gãy, bao kín toàn tượng bằng sơn ta, giấy bản, vải màn, mạt cưa, đất và thếp bạc. Đây là tượng Xá Lợi toàn thân của người Việt Nam tu đắc đạo được bảo quản tôn thờ (Thiền sư Vũ Khắc Minh, Vũ Khắc Trường – Bách khoa toàn thư mở)

Theo Phật giáo Trung Quốc ghi chép có rất nhiều vị Cao tăng tu đắc đạo, khi viên tịch đem hỏa thiêu có Xá Lợi. Nay xin liệt kê một số chư vị Tổ sư, các bậc long tượng trong chốn nhà thiền tiêu biểu như Đức Lục Tổ Huệ Năng (638-713), ngài Hám Sơn-Đức Thanh (1546-1623) có toàn thân Xá Lợi (Pháp sư Thích Khoan Năng trụ trì tại am Tây Sơn Tiển Trạch, huyện Quế Bình, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc viên tịch tối 29/9/1989 (thọ 93 tuổi). Sau khi hoả táng được hơn 1.000 viên xá lợi màu xanh ngọc. Đây là nữ pháp sư đầu tiên sau khi hoả táng có xá lợi. Sau đó còn có hai ni sư là Thông Hiền, Phó Chủ tịch hội Phật giáo Quảng Tây (hoả táng di hài thu được hơn 11.000 viên xá lợi năm màu) và ni sư Thích nữ Hựu Quỳnh, tỉnh Quảng Đông (sau khi hoả táng phát hiện những viên xá lợi to bằng hạt đậu xanh có màu ngọc nhạt, lấp lánh).

Chư kinh nói đến các loại xá lợi

Căn cứ vào kinh Đại Bát Niết Bàn và kinh Đại Chánh Tạng 16, trang 354, quyển thượng thì Xá Lợi là phần tro cốt của Phật và các vị Cao Tăng, theo Sư thì kinh khẳng định các bậc thánh tăng cao tăng có Xá Lợi. Đến thời kỳ sau Phật nhập diệt 200 năm, tức là năm 324 trước công nguyên nhà vua A Dục gom hết Xá Lợi của tám nước, gồm có các nước Ma Kiệt Đà, nước Tỳ xá ly, nước Ca tỳ la vệ, nước Allakappa, nước Ràmagàma, nước Vethadipa, nước Pàvà, nước Kusinàrà, nước Pipphalivana chia thành 84.000 phần đựng trong 84.000 tháp ban bố khắp cả đất nước Ấn Độ thống nhất để thờ phượng

Theo Pháp Uyển Châu Lâm quyển 4 chia Xá Lợi làm ba loại, như: Xá Lợi xương (màu trắng), Xá Lợi tóc (màu đen) và Xá Lợi thịt (màu đỏ) (trích bài Xá Lợi của Đức Phật – Hòa Thượng Thích Phước Sơn – PL 2546)

Theo quan điểm của Liên tông Tịnh độ Non bồng thì chư kinh nhận định chỉ có “Đức Phật” và những vị “cao tăng thời Phật”, những vị tu “chứng đạo” dù ở quả vị thứ bậc giới pháp nào khi làm lễ trà tỳ còn tồn tại những hột màu trắng, màu pha lê, màu ngũ sắc, hoặc nhiều màu khác nhau thì gọi là Xá Lợi. Mặc khác, tam tạng thánh điển, giới luật của Phật tồn tại trong nhơn gian cũng gọi là Xá Lợi và luôn được tôn kính đảnh lễ. Như vậy ở thời mạt pháp kim thân Đức Phật đã qua, chư Tổ sư đã về với vị thứ của mình, còn lại những vị tu hành thâm niên, đạo hạnh nghiêm túc, khi trà tỳ cũng khó có Xá Lợi, huống gì người phàm phu, tu không đến đâu, nay thầy nầy mai thầy khác, phạm giới lung tung đến khi già, hốt hoảng trước những nghiệp chướng dẫy đầy, sợ không siêu thoát, ngồi niệm câu Phật hiệu liên miên, trông chờ sau khi trút hơi thở cuối cùng, nhờ chư liên hữu cầu nguyện hỏa thiêu cho có Xá Lợi! Xem Xá Lợi như người làm công, một phương tiện đỡ nâng, không nên vậy!

Đã tu hành cầu mong giải thoát mà cứ ngồi trông chờ “bỏ thân” đem hỏa thiêu có Xá Lợi”, cho người bái phục mình. Người tu thì lo tu, trông chờ có Xá Lợi để làm gì chứ? Chẳng lẽ để “vinh danh” với đời.

Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, nói: sau lễ trà tỳ, Xá Lợi của Đức Phật được chia làm tám phần và phân chia cho đại diện của tám nước đem về tại quốc gia họ. Nhưng hơn 200 năm sau đó, khi hoàng đế A Dục thống nhất toàn thể lãnh thổ xứ Ấn và trở thành một vị vua Phật tử hộ đạo, vua A Dục đã gom tất cả Xá Lợi ở tám nơi và chia thành 84,000 phần đựng trong 84.000 tháp báu nhỏ ban bố khắp các nước.

II . Cung nghinh, cúng dường Xá Lợi Phật

Theo tư liệu lễ hội rước Xá Lợi “Răng Phật” ở Sri Lanka. Theo sử Phật giáo thì Xá Lợi Phật được chia thành 8 phần được cất giữ ở tám nơi khác nhau: một là Cung Trời Đạo Lợi – Hai là Sri Lanka (xá lợi Răng) – Ba là xứ Ga Đà Ra – Bốn là Thủy cung – Năm là vua Trời Phạm Thiên – Xương Đầu Xá Lợi – Hai xương cổ và 4 chiếc răng Xá Lợi., trong đó có một chiếc đem cúng dường tại Sri Lanka, mỗi năm tổ chức lễ rước từ ngày mùng 01 đến ngày 12 tháng 4 là ngày quốc lễ Răng Phật Xá Lợi.

Sư Anando cúng dường Xá Lợi

Năm 1969, Sư ANando, là Bạn thân thích của Hòa Thượng Thích Giác Quang, thuộc Giáo Hội Phật Giáo Nguyện Thủy Việt Nam về cầu pháp tu hành với Đức Tôn sư Thiện Phước-Nhựt Ý. Sau đó Sư đi du học ở Srilanca có thỉnh hai viên ngọc Xá Lợi của Đức Phật, khi học xong Sư đem về cúng dường cho Đức Tôn Sư và Ni Trường Thích nữ Huệ Giác, hiện nay đang tốn trí thờ phương tại tịnh thất Bảo Tạng. Ngọc Xá Lợi nầy màu vàng ánh, nhỏ như hat cải, Tôi (Thích Giác Quang) có nhơn duyên được giữ gìn ngọc Xá Lợi từ năm 1969 đến năm 1986. Mỗi lần đến đại lễ Phật đản Tôi xin phép Thầy Tổ được đem ra chiêm ngưỡng đảnh lễ Xá Lợi. Hai viên ngọc Xá Lợi nầy khi thả vào nước mưa (hứng giữa trời), thì nổi trên mặt nước và lúc nào cũng lung linh theo sự chuyển động của nước trong bát. Đấy là lần đầu tiên Tôi được tôn thờ, giữ gìn, đảnh lễ Xá Lợi Đức Phật. Ngọc Xá Lợi đó hiện nay vẫn được tôn thờ tại tịnh thất Bảo Tạng.

Cung nghinh Xá Lợi

Ngày 19 tháng sáu năm 2006 lễ vía Đưc Bồ Tát Quan Âm thành đạo, vào lúc 5 giớ sáng, Hòa Thượng Giác Quang được thông tin hôm nay có lễ rước Xá Lợi từ Tp.Hồ Chí Minh và tại Quan Âm tu viện, Trưởng đoàn là Cô Thanh Trúc. Hòa Thượng liền mời Sư Thiện Thanh và nhờ Sư điều hành việc chuẩn bị hương, đăng, hoa quả, thiết lập bàn hương án ngày giữa đường cách phòng Hòa Thượng Giác Quang 10 mét, có sắm cả khay lễ, trong đó chứa đựng lò trầm hương đốt, hương trầm tỏa quyện lấy cả không gian tươi đẹp của buổi bình minh, bên kia chân trời vầng hồng ló dạng, đem lại một sức sống mãnh liệt trong mỗi tâm hồn của Tăng Ni, Phật tử sắp cung nghinh Xá Lợi Đức Phật.

5 giớ 45, đoàn xe đến đọan đường gần núi Châu Thới, chỉ còn 2 km nữa là tới dịa điểm cung nghinh Xá Lợi. 300 chư Tăng Ni, Phật tử bước vào hàng ngũ, đứng trang nghiêm, tất cả đều chắp tạy. Xe đã đến trước nhất Hòa Thượng Giác Quang đến chào quý vị Trưởng đoàn, quý vị nam nữ Phật tử, những Phật tử tín tâm và nhiệt quyết phát tâm cúng dường Xá Lợi, đưa Xa Lợi về tôn thờ tại Quan Âm tu viện. Đoàn do Sư cô Thích nữ Diệu Minh, Trụ trì tịnh thất Bửu Minh cố vấn hướng dẫn, người phát tâm cúng Xá Lợi đầu tiên về tại Quan Âm tu viện là Cô Thanh Trúc, một đệ tử của Phật giáo Nam tông. Quý Sư không ngờ Xá Lợi rất nhiều, tất cả đều được để trong Tháp nhỏ, mỗi tháp cao 10 cm, số lượng Xá Lợi lên đến hằng trăm tháp. Xá Lợi được đặt trong mâm, đựng trong tháp pha lê lớn, tháp nhỏ…Tôi là người đầu tiên bưng một khay lễ Xá Lợi, đi trước tôi là quý Sư Thiện Thanh đánh chuông. Tiếp đến Thượng Tọa Vạn Hùng bưng khay lễ, đến tôi bưng khay lễ Xá Lợi, những bước chân đi từ từ theo thứ tự, quý Thượng Tọa, Ni Sư, chư Tăng, Ni Quan Âm tu viện, Sư cô Diệu Minh, Cô Thanh Trúc và gia đình, Cư sĩ Thiện Lộc cùng quý nam nữ Phật tử tháp tùng theo đoàn…tất cả đều bước đi thật chậm trên lộ trình 200 mét từ bàn hương án cung rước Xá Lợi đến nơi điện thờ Đức Tôn Sư, cũng là nơi tôn trí Xá Lợi để an vị. Đường đi được trải bằng thảm vải vàng thật oai nghiêm và lắng đọng vô cùng, hòa với tiếng niệm Phật: “Nam mô Đại Hạnh Phổ Hiền Vương Bồ Tát Ma ha tát”, trong đó còn lồng lộng những đóa hoa tươi, tung rải khắp nẻo đường, hoa sen hồng, sen trắng, những đóa hoa hồng, hoa hồng trắng, hoa lài, hoa giầy ngũ sắc tung bay lên trời xanh và từ từ lung linh trong gió, hòa với những tâm hồn vô tư nhất của chư Tăng Ni lớn tuổi, trẻ tuổi, ấu niên xuất gia chắp tay đón mừng những tháp Xá Lợi. “Xá Lợi niềm tin” mang nhiều dấu ấn kỷ niệm từ ngàn xưa tại rừng Ta la song thọ, thành Câu Thi Na nơi mà Đức Thế Tôn dù đã nhập diệt nhưng Ngài đã làm cho chúng nhân đệ tử một ân huệ hy hữu trong thế gian.

Đúng 7 giờ, lễ an vị Xá Lợi được cử hành, Hòa Thượng Giác Quang cùng chư giáo phẩm Tăng Ni vân tập trước điện thờ Đức Tôn Sư, với bài kỳ nguyện, cung nghinh Xá Lợi, an vị Xá Lợi, đảnh lễ Xá Lợi, Tôn thờ Xá Lợi…đem công đức nầy cầu phước trí nhi nghiêm thân thanh tịnh đại hải chúng, cầu nguyện chư Tăng Ni an lạc, tinh tấn tu hành, thế giới hòa bính nhân dân an cư lạc nghiệp….

Phật tử từ Bình Dương và Tp.Hồ Chí Minh

Các Tháp Xá Lợi đó hôm nay được tôn thờ tại chánh điện Phân hiệu Ni, thật trang nghiêm trong sáng như thời vàng son Đức Phật sanh tiền. Từ năm 2005 đến nay rất nhiều đoàn cúng đường Xá Lợi về Quan Âm tu viện, như Đoàn Thượng Tọa Thích Thiện Hỷ, Trụ trì Nhứt Nguyên bửu tự, Thượng Tọa Thích Minh Luận, Trụ trì chùa Linh Quang, Bàu Sen, Long Điền, Đoàn Sư cô Bửu Liên, Tp.Hồ Chí Minh,, Đoàn Cư sĩ Tâm Tịnh Nguyễn Thị Ngọc Sương, Đoàn Cư sĩ Nguyễn Thị Ngọc Hường, pháp danh Tâm Huệ, Đoàn cô Lê Tú Lan, pháp danh Ngọc Hoa Giám đốc Cty Vũ Kiều (Bình Dương), Đoàn Cô Đang và gia đình Đoàn Cô Diệu Thanh-Thiện Hạnh (Tp.Hồ Chí Minh), Đoàn gia đình Phật tử Diệu Ngọc (Cô Bảy Kim, huyện Dầu Tiếng) các vị đã thỉnh Xá Lợi từ các nước Ấn Độ, Srilanca, Myamar, Thailand cúng dường.

Thờ Đất Thiêng tại Quan Âm tu viện

Về “đất thiêng”, ngoài đất thiêng của Sư Anando cúng dường, còn có đất thiêng của bốn nơi động tâm, như nơi Phật giáng sanh, nơi Phật xuất gia, nơi Phật thành đạo, nơi Phật nhập niết bàn do Ni Trưởng Thích nữ Huệ Giác trực tiếp thỉnh tại Ấn Độ đem về Việt Nam tôn thờ từ năm 2006 đến nay. Tại tịnh thất Bảo Tạng -Quan Âm tu viện còn có di cốt của Đức Pháp chủ Thích Khánh Anh, thượng thủ Giáo hội Tăng Già Nam Việt, tóc của Đức Sư Ông Thích Bửu Đức, răng, tóc, móng của Đức Tôn sư Thiện Phước-Nhựt Ý. (theo tư liệu HT Thích Giác Quang – Quan Âm tu viện ngày 20/8/2017)

Xây điện thờ Xá Lợi

Theo thông tin từ Sư cô Diệu Minh thì Phật tử Thanh Trúc sẽ phát tâm xây dựng Trung Tâm phượng thờ Xá Lợi trên phần đất của gia đình tại ngã ba Dầu Giây, nơi đây sẽ tôn trí thờ Xá Lợi răng, ngọc Xá Lợi Đức Phật, Xá Lợi các vị thánh tăng, các vị cao tăng đã được khai quật tại Ấn Độ

Phật giáo Việt Nam là nơi Phật tử hướng vê tôn thờ, cúng dường Xá Lợi đông nhất nhì thế giới, là do nhiều nguyên nhân: – Một là chúng sanh trong thế giới ta bà có nhân duyên với Đức Phật và một lòng khát ngưỡng ai cầu Phật Pháp. – Hai là theo môi trường tín ngưỡng Phật Pháp nơi xứ sở Phật thị hiện, thế giới đó con người mang thân tứ đại sanh diệt, có tín tâm, có nghi ngờ, có khổ đau, có vui buồn, có hạnh phúc, có nghèo nàn, thuận lợi cho chúng sanh nơi ấy khởi niềm tin tưởng mà hướng về giáo pháp Đức Phật – Ba là giới pháp của ba đời chư Phật sẽ được truyền trao cho chúng sanh và chúng sanh đều phát tâm thọ học – Bốn là khi cung nghinh tôn thờ Xá Lợi các gia đình Phật tử gặp nhiều thuận lợi, gia đình ngày càng sung túc, phát triển Cty ăn nên làm ra, thân tâm an lạc, được từ lực Phật gia hộ tinh tấn tu hành trường chay niệm Phật. với các nguyên nhân nầy nên các vị phát tâm tôn thờ.

Ứng hóa thân Phật

Phật có tam thân, một là pháp thân, hai là báo thân, ba là ứng hóa sanh thân. Ứng hóa thân là thân thị hiện vào cuộc đời độ sanh, như thân Phật Thích Ca Mâu Ni Phật, có mang thân tứ đại, sau khi nhập diệt thiêu hóa có Xá Lợi, nên gọi Xá Lợi Phật. Xá Lợi Phật cũng là ứng thân Phật. Theo từ điển Phật học của Cụ Đoàn Trung Còn, trang 1476, nói về Xá Lợi như sau: Xá Lợi là tro tàn, thân cốt Phật và các vị thánh tăng “bạch nghiệp”, những bậc chân tu đã quá vãng. Hồi Đức Phật Thích Ca 84 tuổi, Ngài thị tịch gần thành Câu Thi Na, chư đệ tử vừa xúc động vừa đem kim thân Ngài lên giàn hỏa mà trà tỳ theo truyến thống của ba đời chư Phật, tro tàn của Ngài thành ra từng viên đẹp đẽ và chiếu sáng như ngọc, nên kêu là Xá Lợi.

Có hai loại Xá Lợi: Một là “toàn thân Xá Lợi”: như Đức Phật Đa Bảo đã tịch, nhưng Xá Lợi của Ngài là toàn thân thể của Ngài vẫn ngồi kiết già trong Bào tháp. Trong các đời sau hễ có vị Phật nào giáng sanh giảng kinh Pháp Hoa thì toàn thân Xá Lợi ấy xuất hiện mà nghe kinh vừa hộ trì chánh pháp. Hai là “toái thân Xá Lợi”, do người tu tụng kinh niệm Phật, tụng chú lực của Phật có công đức, nên Xá Lợi mỗi ngày thêm nhiều (nát ra) như Xá Lợi Phật Thích Ca thờ trong các chùa Tháp, thánh điện trên thế giới.

Xá Lợi có hai đẳng bậc đặc biệt trong quá trình Phật thị hiện độ sanh: Một là Sanh thân Xá Lợi: tức là “toàn thân Xá Lợi” và “toái thân Xá Lợi” chính Phật dùng cái sanh thân mà tu hành giới định tuệ, thành Phật, rồi tịch diệt để lại Xá Lợi. Chư thiên và loài người những ai cúng dường Xá Lợi ấy sẽ được phước đức lớn, ảnh hưởng đến cầu cho cửu huyền thất tổ siêu sanh lạc quốc thượng phẩm, ông bà cha mẹ tại tiền nương công đức nầy biết hướng về giáo pháp của Phật tu hành, gia đình hạnh phúc an vui. Hai là Pháp thân Xá Lợi, tức là các kinh điển đại thừa và tiểu thừa, giúp cho chúng sanh tu hành giải thoát khổ đau, ra khỏi những phiền não của kiếp trầm luân chúng sanh

Vì các lẽ ấy nên hiện nay Phật tử Việt Nam và các dân tộc Á Châu, các quốc gia từ Đông bán cầu đến Tây bán cầu, trừ các tôn giáo khác đều tín ngưỡng Xá Lợi, cúng dường Xá Lợi, chiêm ngưỡng Xá Lợi, đảnh lễ Xá Lợi, phượng thờ Xá Lợi.

III . Các thành phần Xá Lợi

Căn cứ vào kinh “Dục Tượng công đức” (đời nhà Đường xứ Thiên Trúc, ngày Tam Tạng Bảo Tư Duy dịch Phạn ra Hán, Quảng Minh dịch Hán ra Việt) và sách “Pháp uyển châu lâm”,(do Pháp sư Đạo Thể, tự Huyền Uẩn biên sọan vào đời nhà Đường,TT Thích Nguyên Chơn biên dịch, NXB Phương Đông ấn hành) chúng ta có thể nhận biết Xá Lợi là phần thiêng liêng cao quý của Đức Phật, chư vị Thánh tăng, Cao tăng, Giáo chủ các giáo phái, những bậc làm Thầy Tổ, các bậc thiền gia chân chánh, giữ giới tinh nghiêm trở lên khi niết bàn, thị tịch, viên tịch mới được công nhận là Xá Lợi.

Những thành phần gọi Xá Lợi:

· Tro cốt sau khi trà tỳ Đức Phật

· Răng, tóc, móng, máu của Đức Phật sau khi trà tỳ còn tồn đọng

· Tro cốt của chư vị Thánh tăng, Cao tăng, Thầy Tổ, Tăng chủ các giáo phái

· Mùng, mền, kiến, vật dụng của các bậc Cao tăng

Phật tử qua đời hỏa thiêu có Xá Lợi?

Với danh từ Phật học các Bạn được xưng danh là Cư sĩ Phật tử cũng là con của Phật, nhưng thuộc vào hàng Cư sĩ, do gia duyên bận buộc nên mức độ tu chứng có chừng mực. Vả lại trong quá trình tu hành cũng không ai nghĩ mình có Xá Lợi làm gì, cũng không Cư sĩ Phật tử nào xưng hô mình hỏa thiêu có Xá Lợi. Tất cả những gì cao quý, được tôn vinh, mọi người tôn kính chắc chắn Phật tử sẽ phát nguyện dành cho Đức Phật và Thầy Tổ (Cao tăng) của mình. Dù người Phật tử qua đời thiêu hóa có Xá Lợi thật đi nữa thì cũng không xưng hô mình là thánh tăng, cao tăng phải không quý vị?

Nếu người Phật tử tu hành chính chắn, có đạo hạnh thì khi thiêu hóa cũng có Xá Lợi như các bậc Thành tăng và nhà Phật vẫn trân quý và tôn thờ Xá Lợi đó theo giới hạnh Cư sĩ. Các vị Cư sĩ đó là những người con Phật bảo hộ Phật Pháp khiến cho chánh pháp tồn tại lâu trong đời. Tuy nhiên đối với Phật tử lúc lâm chung, cần áp dụng những từ ngữ cho đúng, như: :”Phật tử qua đời”, “Phật tử quy tây”, “Phật tử đi về” thì được; không nên nói Phật tử “thị tịch”, Phật tử “Niết bàn”, hay “viên tịch”,nhưng cũng có thể dùng từ “Xá Lợi” áp dụng cho Phật tử.

Chúng ta cũng có thể tháo gỡ một phần để cho thấy từ ngữ “Xá Lợi” cũng áp dụng cho Phật tử khi lâm chung. Trên lộ trình tu chứng, căn cứ kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa:” Đức Phật dạy ông Tu Bồ Đề: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng phi tường tức kiến Như Lai…”nghĩa là: Nầy Ông Tu Bồ Đề, trong thế gian tất cả các tướng đều là hư vọng, Ông nhìn thấy các tướng chẳng phải tướng, mới thấy được Phật. Thật vậy, theo Phật giáo đại thừa thì các tướng nam, tướng nữ, tướng xuất gia, tường tại gia, tướng Phật, tướng chúng sanh…đều là giả tướng, phi tướng, tức là “không có tướng”, cũng là “không tướng”, tướng “không tướng” tức là tướng thanh tịnh. Người tu đắc đạo, đạt lý “không tướng” tức là đạt đến quá trình tu chứng “tự tánh không”, các tướng đều đồng đẳng, không cao thấp . Như vậy người con Phật xuất gia hay tại gia khi xả báo thân, hỏa thiêu có Xá Lợi thì Xá Lợi đó cũng đều là Xá Lợi được tôn thờ.

Nói vậy thôi, chứ chúng ta không nên bàn việc phượng thờ Xá Lợi lên thành cao trào. Trên thế gian việc nào mà đã lên đến cao trào thì chắc chắn có lúc cũng phải bị tuột dốc thấp thỏm đến mức tồi tệ. Vì cao trào sẽ đưa đến chỗ hình thức phức tạp, Xá Lợi do con người tạo có nhiều hơn Xá Lợi thật, Xá Lợi không còn chân thật, xứng đáng chỗ thật tu thật chứng nữa. Vô tình chúng ta đưa Phật Pháp vào vùng trũng “hào hoa hư ngụy” không còn chỗ dừng trong lòng người Phật tử chân chánh.

Công đức thờ cúng Xá Lợi

Phật giáo Việt Nam, nhất là các chùa Nam tông Phật giáo, một ít chùa Bắc tông, các nhà Sư, Phật tử Việt Nam tôn thờ cung nghinh Xá Lợi rất nhiều và rất tôn kính. Tuy nhiên cũng có những người thờ Xá Lợi mà không tròn tâm tròn ý, xao lãng việc Phật, xem Xá Lợi như món quà tinh thần, thì phải mất Xá Lợi thôi. Có những vị vì quá tín ngưỡng, để Xá Lợi trong ống vàng 9999, ống bạc, ống mica đeo Xá Lợi lên cổ, tin tưởng Xá Lợi sẽ gia hộ cho hết bệnh, tai qua nan khỏi, sanh mệnh an khang, Xá Lợi gia hộ cho khỏi bị sa đọa địa ngục…Có người để Xá Lợi trong ví tiền cho có tiền vào nhiều, để Xá Lợi trong cặp học cho Phật hộ học giỏi một thời gian sau do quên lãng nên đánh mất Xá Lợi, hoặc Xá Lợi nát vụn theo thời gian. Sự tín ngưỡng nầy có phước hữu lậu không có công đức, có công đức nhưng không có tri tuệ, hoặc không có công đức, huống gì nói đến trí tuệ. Làm tăng trưởng nghiệp chướng thế gian che án con đường đi đến Phật Pháp, không có tiêu chuẩn công đức như chiêm ngưỡng Xá Lợi thật. Việc tín ngưỡng Xá Lợi dù là “Xá Lợi thật” hay “Xá Lợi niềm tin” vẫn được sự hộ trì của chư Phật. Người tín ngưỡng Xá Lợi Phật làm việc Phật sự nào cũng thành tựu tốt đẹp, vì những người đó cũng là họ hàng của Phật từ trong vô lượng kiếp. Những gia đình Phật tử phát tâm thờ Xá Lợi, nơi đó phải thờ Phật trang nghiêm như Đạo tràng, sắp xếp phượng thờ ngôi Tam Bảo đơn giản. về người thờ phải phát tâm ăn chay trường, tụng kinh niệm Phật ít nhất một thời vào buổi tối, tư cách tu hành được tín nhiệm của Bổn sư, Trụ trì cho phép và đến tôn trí an vị giúp cho gia đình an lạc.

Đức Phật là bậc chánh đẳng chánh giác, phước đức vô biên trí tuệ vô cùng tận…Ngài lúc nào cũng được người thế gian tín ngưỡng tôn sùng, bái lạy. Kính thờ Phật đến độ người thế tục in hình Phật vào bao nhang, keo chao…, hoặc cấm kỵ không ai được phép đụng chạm. Đôi khi thấy hình Phật bị bỏ rơi đâu đó, mọi người ai cũng đau lòng và có trách nhiệm là nhặt đem về thiêu hóa trong bồn chậu sạch mới yên lòng. Cũng như nơi thờ Xá Lợi Đức Phật là phải tinh khiết, tôn trí trong tháp báu, đặt lên bàn Phật cho trang nghiêm, kỹ lưỡng kín đáo thì Xá Lợi mới còn với Bạn. không nên đem ra đưa vào nhiều lần cho mọi người chiêm ngưỡng làm phai nhòa hình ảnh Đức Thế Tôn.

Có thể mỗi năm đến ngày đại lễ Phật đản Thầy Trụ trì đem Xá Lợi ra trước bàn thờ Đức Sơ sinh để cho Phật tử đi kinh hành chiêm ngưỡng Xá Lợi. Đến ngày cúng húy kỵ tổ sư khai sơn đem tro tàn của Thầy Tổ cho Phật tử chiêm bái. Mỗi năm làm như vậy là đủ rồi., không nên thờ Xá Lợi lộ thiên, sẽ bị mất vào tay của người xấu, cũng không nên đặt chỗ kín đáo quá Xá Lợi sẽ mất vĩnh viễn, không trở lại với Bạn!

Ỡ Việt Nam, nhất là ở Tp. Hồ Chí Minh, Tp.Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, Tp.Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai có nhiều gia đình Phật tử tín tâm, tuy là tu tại gia nhưng việc tu hành, tu tập thiền tụng như người xuất gia, sống am thất riêng. Rất tín tâm trong việc thờ phượng Xá Lợi, hằng ngày tinh chuyên tụng niệm, phượng thờ Xá Lợi, đảnh lễ Xá Lợi, niệm chú Đại bi, các thần chú linh nghiệm khác, thời gian 7 ngày, 21 ngày, hay 100 ngày. Khi nhơn duyên đã đến, được chiêm ngưỡng Xá Lợi phát sanh, có khi nhân đôi, có khi hình như bể nát, hiện tượng nầy gọi là “toái thân Xá Lợi” (tự điển Phật học – Đoàn Trung Còn), cũng gọi là “Xá Lợi niềm tin”, làm cho người thờ Xá Lợi rất bùi ngùi xúc động và cũng mĩm cười hoan hỷ với sự chứng nghiệm tâm linh.

Phật tại thế thời con ngã trầm luân

Phật nhập diệt con mới được thân người

Tủi phận thân con nhiều tội chướng

Búi ngúi chẵng thấy đặng kim thân

Xá Lợi, kinh Phật là của báu

Theo văn hóa Phật giáo thì Xá Lợi là “Phật bảo”, “Pháp Bảo” của nhà Phật, như một nước có ấn, kiếm của vua là “quốc bảo” của một triều đại vậy, nên phải giữ gìn thật nghiêm mới không bị đánh mất. Người tín ngưỡng Xá Lợi, kinh Phật cũng có khi trở thành người không có thiện tâm, trường hợp như sau ngày hòa bình Thượng Tọa Thích Thiện Tâm, Trụ trì chùa Pháp Bảo, Tp.Hồ Chí Minh tuyên bố mất Xá Lợi trên chánh điện, nhưng tháp thờ Xá Lợi bằng vàng ròng không mất, chứng tỏ Xá Lợi quý hơn vàng, kẻ trộm lấy Xá Lợi chứ không lấy vàng? Chùa Pháp Bảo là chùa Nam Tông, phượng thờ Xá Lợi thật chu đáo kỹ lưỡng mà còn mất, huống gì người tâm trí hờ hững, hằng ngày chỉ chuyên lo việc gia đình xã hội nhiều hơn việc đạo làm sao có phương tiện thờ phượng Xá Lợi?

Pháp thân Xá Lợi (Kinh, Luật, Luận)

Theo kinh Dục Tượng Công Đức thì Xá Lợi được chia thành hai loại là Sanh thân Xá Lợi và Pháp thân Xá Lợi.

Sanh thân Xá Lợi còn gọi là Thân cốt Xá Lợi, tức là di cốt của Phật. Về Sanh Thân Xá Lợi như đã nói ở chương I. Nay sẽ nói về Pháp Thân Xá Lợi, để mọi người tìm hiều, như từ xưa đến nay chư vị Phật tử chưa nghiên cứu sâu sát về Xá Lợi và các lọai Xá Lợi.

Pháp thân Xá Lợi còn gọi là Pháp tụng Xá Lợi, tức là Giáo pháp và Giới luật của Phật còn lưu truyền lại. Nay xin giới thiệu một số kinh bộ tiêu biểu thuộc diện quý hiếm của người xưa để lại và được liệt kê vào danh sách Xá Lợi Kinh Luật Luận trong Liên tông Tịnh độ Non bồng và cho người sau được biết mà tôn thờ.

Ngày 25 tháng 02 năm 1978 Quan Âm tu viện mất 80 bộ kinh Đại Bát Niết Bàn là Pháp bảo đang tôn thờ tại Chánh điện.Người lầy kinh dự định đem kinh ra ngọai quốc, quý Sư chưa rõ đem đến quốc gia nào, nhưng khi đem ngang qua hàng rào Hải Quan sân bay thì bị chận lại, do trong quyển kinh có đóng dấu Thư viện Quan Âm tu viện, Bửu Hòa, Biên Hòa, nên Hải quan trả về Công an Tp.Biên Hòa. Đến tháng tư, năm 1979 tu viện được nhận lại 80 bô kinh Đại Bát Niết bàn.

Tại Thành phố Qui Nhơn tỉnh Bình Định là quê hương Phật Pháp những thời xa xưa, Tổ sư Nguyên Thiều (1648-1728) truyền đạo từ nửa cuối thế kỷ thứ 17, năm 1677 từ Trung Hoa vào Việt Nam, xây dựng chùa Di Đà Thập Tháp, Bình Định. Đến năm 1689 Tổ sư được chúa Nguyễn Phúc Trăn sắc chỉ xây dựng chùa Quốc Ân và tháp Phổ Đồng tại Thuận Hóa. Năm 1692 chúa Nguyễn Phúc Chu lên thay cha sắc phong Ngài làm Trụ trì chùa Hà Trung, sau đó vào Nam, đến ấp Bình Thảo, xã Tân Bình, huyện Vĩnh Cữu, Đồng Nai khai mở nền Phật pháp với tông chỉ “Thiền Tịnh song tu”. Ngài xây dựng ngôi Tổ đình Quốc Ân Kim Cang, đến hôm nay rất thịnh hành và còn lưu truyền bài pháp “Tổ sư Huấn Hối Yếu Tắc”, gồm có 10 bài, mỗi bài 4 câu kệ, nội dung giáo hóa chư Tăng Ni niệm Phật, giữ giới, thanh bần lạc đạo xứng đáng là Thích tử chốn thiền môn trong thời hội nhập (Ban Tăng sự GHPGVN tỉnh Đồng Nai 2017 – HT Thích Giác Quang).

Tổ đình Linh Sơn, núi Bồng Lai, huyện Tân Thành, Bà Rịa Vũng Tàu, nơi Đức Tôn sư Thiện Phước-Nhựt Ý, Tông Trưởng Liên tông Tịnh độ Non bồng có điêu khắc Long vị thờ Tổ sư Minh Đăng Quang đã vắng bóng năm 1955, Long vị cao 1,60 mét tôn thờ tại Tổ đường. Riêng tại Chánh điện Tổ đình có nhiều tủ thờ Pháp bảo, trong đó tờ 250 bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa, bản dịch song ngữ của Hòa Thượng Tích Trí Tịnh. Vào lúc 10 giờ ngày 30 tháng 7 năm Giáp Thìn (1964) chiến tranh tàn phá pháo đài bay F5 dội bom Tổ đình, tất cả tượng Phật đồng, cement, pha lê…điều bị thiêu hủy, riêng Long vị Tổ sư Minh Đăng Quang, 250 bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa không bị cháy, dù một số quyển kinh bị miễn bom ghim vào kinh bên trong, nhưng chữ kinh vẫn còn đọc được! (HT Thích Giác Quang – Tổ đình Linh Sơn, núi Bồng Lai, Bà Rịa Vũng Tàu)

Tại Quan Âm tu viện có thờ bộ kinh Đại Bát Niết Bàn trọn bộ 4 quyển, bản dịch năm 1928, kinh Diệu Pháp Liên Hoa bản dịch năm 1930, kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, 3 bộ kinh nầy đều thuộc bản dịch của Cụ Đoàn Trung Còn. Ngoài ra còn có Tam tạng Thánh điển tôn thờ tại Tịnh thất Bảo Tạng, 12 lời nguyện Bồ Tát Quan Âm, sách dày 5 cm, gồm 14 trang, cao 8 cm, rộng 6 cm, trưng bày tại Nhà Truyền Thống (tư liệu HT Thích Giác Quang – Quan Âm tu viện)

Thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận có chùa Phật Quang, thành lập năm 1734 đời vua Lê Thuần Tông (1699-1735), bên nhà chúa là Nguyễn Phúc Trú, do Hòa Thượng Thích Huệ Tánh làm Trụ trì từ năm 1987, chùa đang tôn thờ bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa trên 118 tấm gỗ thị (khắc ngược), do Thiền sư Minh Dung chủ trì, sự hỗ trợ của Thầy Thiện Pháp cùng với 52 Phật tử thực hiện từ năm 1704 đên 1732 đúng 28 năm hoàn thành, kinh là di sản văn hóa Phật giáo (HT Giác Quang sưu tầm từ bạn thân giới thiệu và thông tin từ tư liệu chùa Phật Quang, HT Thích Huệ Tánh, Trụ trì khi HT vào viếng Quan Âm tu viện)

Ngoài ra còn có các bản kinh Kim Cang hay gọi là Kim Cương bản kinh gồm 7000 chữ, có lời chú sớ “Lời tựa của Vua Quang Toản-Cảnh Thịnh Nhà Vua nói: “chỉ có bản dịch của Vô Trước Bồ Tát tạo, đời Tùy, Đạt Ma Cấp Đa dịch, thuộc Đại Chánh 25, trang 757, lời tựa và bản kinh được thêu trên lụa gấm và lụa đào, dài 2,47 mét, rộng 23,4 cm, hiện được lưu giữ tại chùa Trúc Lâm, Huế.(kinh Kim Cang, dòng lịch sử – thời điểm và văn bản – Thích Thái Hóa)

Xá Lợi niềm tin?

Tín ngưỡng là niềm tin tôn giáo, nhất là niềm tin trong thế giới những người con Phật rất xác đáng và nghiêm túc. Một đôi khi do môi trường khắc nghiệt, xa ánh sáng Phật pháp, xa thời gian Phật nhập diệt nên sự tín ngưỡng bị lêch lạc, kéo theo sự mê tín, như tin Đức Phật là thần thánh ban phước giáng họa, chứ không tin Phật là bậc giác ngộ giải thoát những khổ đau phiền não cho chính mình và tìm phương án giải thoát khổ đau cho mọi người Sự tín ngưỡng bao giờ cũng là con đường đi đến chỗ siêu việt về tâm linh “tin Phật là có Phật”, làm việc gì tin vào “sự thành công thì dẫn đến thành công”. Mặc khác, có sự tín ngưỡng nặng về “hình thức”, lúc nào cũng chú trọng đến “hình tướng”. Không chú trọng đến tâm linh, không chánh tư duy đến cái “không hình tướng” thì không còn bảo đãm tính chân thật.

Như nghệ nhân làm phù điêu, chú tâm vào việc khắc Phật, đục đẽo Phật, đẽo một khúc mít hay các lọai cây danh mộc trở thành tượng Đức Phật để thờ, chắc chắn lúc bấy giờ quý vị và mọi người đều phải lạy tượng Phật, mà trước kia “tượng Phật” chỉ là khúc mít. Đây chính là niềm tin tâm linh cụ thể nhất trong thế giới nhà Phật “lấy giả làm thật”, “lấy vọng làm chơn”. Như vậy thì việc tin Xá Lợi thật hay giả cũng căn cứ vào tâm niệm, niềm tin của chúng ta. Như Phật tử làm rơi viên Xá Lợi thật lộn vào trong cát, coi như bị mất Xà Lợi. khó mà tìm kiếm Xá Lợi lẫn trong cát, lúc bấy giờ tìm mãi không được! Phật tử liền suy nghĩ: “ta tin hột cát nằm trong cát là Xá Lợi”, vừa tâm niệm như thế, “Phật tử liền tìm được Xá Lợi”. Trường hợp nếu không có niềm tin thì không tìm được Xá Lợi. Người không có niềm tin thì dù cho có Xá Lợi thật đi nữa cũng không tìm thấy Xá Lợi!

Ban ơi, trong Duy Thức Học tam thập tụng, Phật dạy “…Nhứt thiết duy tâm tạo…”, mỗi mỗi sự việc, sự vật gì đó đều do tâm mình suy nghĩ “thật thì nó thật”, suy nghĩ “không thật thí nó không thật”. Cho nên chúng ta tin Xá Lợi thật thì có thật, chúng ta xem đó là già thì Xá Lợi giả.

Theo tư liệu “Xá Lợi thật của Phật và Xá Lợi niềm tin” của nhà khảo cổ học người Anh tên William Claxton Peppe thì vào năm 1898 đã phát hiện ra Xá Lợi Phật ở Ca tỳ La vệ (Kapilvastu) quê hương Đức Phật,. Hiện nay những di cốt Xá Lợi Đức Phật được khai quật tại cố đô Ca tỳ La vệ thuộc dòng họ Sakya đang được tôn trí tại Viện Bảo Tàng New Delhi – Ấn Độ. Sau khi Phật nhập diệt Xá Lợi được chia ra làm tám phần để trong tám tháp, do người Bà la môn tên Dona đứng ra làm trung gian dàn xếp giao cho tám vương quốc thời bấy giờ gìn giữ và đến thời điểm hiện nay. Điểm thứ hai tại kinh đô Tỳ Xá Ly (Hoa Thị Thành) thuộc dòng họ Lichivas sau khi khai quật được tôn trí tại Viện Bảo Tàng Patna. Điểm thứ ba tại Dharmarajika ở Sarnath, là một thành phố lớn do ông Jagat Singh làm Thị trưởng, ông là người theo đạo Bà La môn không tin vào việc thờ Xá Lợi Đức Phật, đã đem Xá Lợi Đức Phật thả xuống sông Hằng làm theo tập tục người Ấn có vẻ bất kính Đức Phật Thích Ca, Giáo chủ của Đạo Phật. Còn lại gạch của tháp Xá Lợi đem xây nhà khu kiều bào mang tên Jagat Singh thật đau xót (trích Xá Lợi Phật và Xá Lợi niềm tin – Thư viện Hoa Sen). Việc làm của Thị trưởng Jaga Singh là người theo tín ngưỡng của Đạo Bà la môn, đã xúc phạm đến sự tín ngưỡng và lòng tự trọng của người Phật giáo. Người sau xin hỏi lúc bấy giờ không ai có thể can thiệp giúp cho Phật giáo hay sao? Rất tiếc Thị trưởng Singh can thiệp sâu vào tôn giáo Bạn Phật giáo, làm việc ác, mặc dù vậy nhưng cũng không phá vỡ sự tín ngưỡng về Đức Phật, sự tín ngưỡng đó đã lan rộng khắp năm châu bốn bể cho đến ngày nay, mọi người tìm cách tạo nên sự tín ngưỡng “tôn thờ Xá Lợi bằng niềm tin tâm linh, tin có thì có, tin thật thì thật.

Như vậy Xá Lợi Đức Phật sau khi ngài niết bàn, xưa được chia cho tám Vương quốc, theo năm tháng thăng trầm của Đạo Phật, nhằn để tránh sự dòm ngó của ngọai đạo, các phần Xá Lợi đã được triều đình Ca tỳ La vệ, các Cụ Trưởng lão những người con cháu Đức Phật chôn giấu kỹ lưỡng, sâu trong lòng đất núi non hùng vĩ. Theo tư liệu của W C Peppe, kiểm chứng lại thì Xá Lợi Phật vẫn còn nhiều trên quê hương Đức Phật còn 5 nơi nữa trên một đất nước mênh mông trong vùng rừng núi thiêng liêng và huyền bí, con người thích cảnh sống vô vi, không thiết tìm ra Xá Lợi Phật. Do vậy, các lọai Xá Lợi truyền bá tại Tây Tạng, Buthan, Sikkim, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia chỉ là “Xá Lợi niệm tin” vì chưa được giám định ADN, xác định gen di truyền chưa kiểm dịch C14 để xác định niên đại. “Xá Lợi niềm tin”, chúng ta không biết thật giả ra sao, nên chưa xác định có cơ sở để tin được…

Có một điều mà từ 30 năm qua bắt buộc người tu sĩ Phật giáo mãi suy nghĩ việc nhận định thật giả về “Xá Lợi”. Người Cư sĩ, khi trút bỏ xác thân đem hỏa thiêu có Xá Lợi, việc nầy nhà thiền chấp nhận, nhưng không nên làm “ồn lên” thành một phong trào. Người tu niệm Phật khi “qua đời” hỏa thiêu có Xá Lợi, xưa nay là một hiện tượng không hiếm, điều nầy nên tán thán công đức tín tâm của những Cư sĩ Phật tử Việt Nam.

Theo kinh “Dục Tượng công đức”, sách “Pháp Uyển Châu Lâm” giảng chỉ có Phật và các vị Cao Tăng khi thị tịch đem “trà tỳ” còn tồn tại tro tàn, di cốt được gọi là Xá Lợi…Đối với người Cư sĩ tu hành lúc qua đời đem hỏa thiêu còn lại tro tàn, những hạt ngọc trong sáng có được gọi là “Xá Lợi” không? Nhưng có một điều chắc chắn phải được sự cung kính tôn vinh bằng nghi thức theo giới Cư sĩ Phật tử! Cũng có những Phật tử thâm niên tu hành, khi qua đời, không chấp nhận cho con cháu đem hỏa thiêu vì sợ nóng…có gia đình không cho hỏa thiêu vì truyền thống gia đình, hoặc con cháu sợ hỏa thiêu ông bà nóng quá tội nghiệp, cho nên không có gì phải bàn về Xá Lợi đối với Cư sĩ Phật tử.

Một người tu sĩ xuất gia thâm niên viên tịch khi trà tỳ nếu tồn đọng một số xương cốt tro tàn, màu vàng óng ánh, màu trắng đục hay trắng trong…có thể gọi là Xá Lợi, nhưng phải xem lại quá trình tu hành của tu sĩ đó có đạo hạnh hay không? Nếu là tu sĩ đạo hạnh thì còn có thể tin được và cung nghinh đảnh lễ di cốt. Trường hợp phạm giới “trọng” là chuyện rành rành mà nói có Xá Lợi thì thật vô lý.

Phần kết

Ngài Long Thọ Bồ Tát có bài kệ, xin trích một đoạn như sau: “Nếu người trồng căn lành – Nghi thời hoa không nở – Người tín tâm thanh tịnh – Thời hoa nở thấy Phật…”.. Niềm tin của ngài Long Thọ là tín tâm, thấy đúng như thật, thấy Xá Lợi xuất xứ từ đâu, chạm thực thế với Xá Lợi. Xá Lợi của Phật hay Xá Lợi niềm tin, như vậy niềm tin của Long Thọ Bồ Tát là niềm tin xác đáng. Niềm tin có trí tuệ biết đâu là tướng thật, đâu là tướng giả, biết thật giả như thế nào rồi mới tin, tin như thế không còn nghi, không nghi ngờ mới thấy Phật. Tin của ngài Long Thọ không có tin mù quáng, không tin lưng chừng, nửa vời, niềm tin có chuẩn mực và thanh tịnh. Thấy Phật, thành Phật, người có niềm tin chân chánh sẽ gặp Xá Lợi thật.. Việc thờ Xá Lợi không phải ai muốn thờ cũng thờ được, có vị đang thờ sanh tâm khinh lờn chán nản thối chuyển, trước thờ, sau không thờ và vĩnh viễn không thờ nữa. Nên chỉ có Thầy Trụ trì một ngôi chùa mới có phương tiện thờ Xá Lợi. Người Phật tử ăn chay trường, niệm Phật không giao lưu thế tục nữa thì được thờ Xá Lợi. Không nên thờ Xá Lợi bừa bãi, không nên xem Xá Lợi như một lá bùa phò hộ cho mình tai qua nạn khỏi.

Người Phật tử, do gia duyên bận buộc, đôi khi ít quan tâm đến bàn thờ Phật, trừ những vị từ 50 tuổi trờ lên. Tuổi trẻ hôm nay không có thời gian phượng thờ dâng hương cúng cơm ,cúng nước Tam Bảo, làm gì có cơ hội thờ Xá Lợi, cho nên người tu tại tư gia không thờ Xá Lợi vậy thôi. Vả lại gia đình Phật tử thờ Phật, không có phương tiện thờ Xá Lợi cũng không sao! Xin nhắc các Bạn về công đức thờ Xá Lợi, lạy Xá Lợi, chiêm ngưỡng Xá Lợi, cung nghinh Xá Lợi đều như nhau, Cho nên, Bạn không thờ Xá Lợi tại gia thì Bạn đãnh lễ Xá Lợi ở chùa cũng được, Bạn không có thời gian đảnh lễ Xá Lợi ở chùa thì Bạn cung nghinh Xá Lợi ở bất cứ nơi nào trên thế gian vẫn có phước đức vô lượng

Xá Lợi công đức muôn ngàn

Phượng thờ cho chính hơn vàng thế gian

Bàn có bảo cái tràng phang

Thờ cho tinh khiết nghiêm trang đức dày

HT Thích Giác Quang

Giải Mã Xá Lợi Không Phải Ai Cũng Đủ Duyên Lành Được Thấy Xá Lợi

Giải mã Xá Lợi Phật

Giải mã Xá Lợi Phật

Vậy xá lợi phật là gì? Lý giải về điều bí ấn của xá lợi phật, Đại Đức Thích Chơn Phương, trụ trì chùa Viên Đình (Đông Lỗ, Ứng Hòa, Hà Nội) ngôi chùa hiện lưu giữ nhiều xá lợi phật nhất Việt Nam cho biết, xá lợi theo phiên âm tiếng Phạn Sarira, nghĩa đen là “những hạt cứng”. Xá lợi không phải là vật gì xa lạ đối với chúng ta, tuy nhiên không phải ai cũng đủ duyên lành được chiêm ngưỡng xá lợi Phật.

Cũng theo Đại Đức Thích Chơn Phương, trên thế giới hiện xá lợi toái thân có nhiều, nhưng xá lợi toàn thân thì rất hiếm. Ở Việt Nam, nhiều vị thiền sư sau khi thác đã để lại xá lợi, ngay như Phật Hoàng Trần Nhân Tông sau khi bỏ ngai vàng xuất gia, khi thác ngài cũng để lại toái thân xá lợi là những viên ngọc.

Hay như “Bồ tát” Thích Quảng Đức “thiêu thân phát nguyện trái tim bất diệt” và hiện nay trái tim của người vẫn còn được lưu giữ. Điều đó có thể thấy, xá lợi phật có thể là nhục thân, toái thân, là những viên ngọc, trái tim, tóc, răng…

Thông thường, xá lợi thường xuất hiện với hình dạng như những viên ngọc trai hay đá quý nhiều màu sắc, long lanh như ngọc, rắn chắc như kim cương, búa đập không vỡ, lửa thiêu không cháy và thu được sau lễ trà tỳ (hỏa thiêu). Đây là sự kết tinh kỳ diệu của sự thành đạt tâm linh, sự phát triển tột cùng của hạnh từ bi và trí tuệ.

Để giải thích cho sự tồn tại những viên xá lợi, đến nay vẫn tồn tại nhiều cách giải thích khác nhau. Các nhà xã hội học cho rằng, đó là do thói quen ăn chay, thường xuyên sử dụng một khối lượng lớn chất xơ và chất khoáng, quá trình tiêu hóa và hấp thu rất dễ tạo ra các muối phosphate và carbonate.

Những tinh thể muối đó tích lũy dần trong các bộ phận của cơ thể và cuối cùng biến thành xá lợi. Tuy nhiên, giả thuyết này không đủ sức thuyết phục. Bởi lẽ, số người ăn chay trên thế giới nhiều vô kể nhưng không phải ai khi hỏa táng cũng sinh xá lợi. Trong khi đó, số người theo đạo Phật cũng không phải ít, nhưng tín đồ bình thường đó khi hỏa thiêu cũng không thu được xá lợi.

Trong khi đó, một số nhà khoa học lại cho rằng, có thể xá lợi là một hiện tượng có tính bệnh lý, tương tự như bệnh sỏi thận, sỏi bàng quang, sỏi mật… Nhưng giả thuyết này cũng không thuyết phục vì sau khi đưa xác đi thiêu, trong phần tro của những người mắc các chứng bệnh trên không phát hiện xá lợi.

Mặt khác những cao tăng có xá lợi thường sinh thời rất khỏe mạnh, tuổi thọ cũng rất cao. Thế nên, hiện giờ nhiều người nghiêng về quan điểm cho rằng xá lợi là kết quả của quá trình tu hành khổ luyện, tu dưỡng đạo đức. Vì thế, xá lợi chỉ xuất hiện ở những người có tấm lòng đại từ đại bi, luôn làm việc thiện.

Xá Lợi Phật và Chư Bồ Tát là bảo vật thiêng liêng vô giá được tích tụ từ công đức thù thắng cuả Thiền định , đạt đến sự vi diệu cuả Đaị định tam muôị – Đức Phật và chư Bồ tát vì bản nguyện độ sanh , đã phát Đại thừa tâm vô cùng dõng mãnh , tận trừ moị cấu hoặc phiền não đạt đến thanh tịnh tuyệt đỉnh . Xá Lợi là tinh hoa , được đúc kết bằng công hạnh Thiền định và lòng từ bi cứu khổ độ sanh của Phật và chư Bồ Tát từ ứng thân thị hiện , nhập thế độ sinh còn lưu laị ở đơì . Xá Lợi tiếng Phạn là Sarira, là tro tàn thân cốt của đức Phật và chư Bồ Tát sau khi nhập diệt . Đức Phật Thích Ca vào Niết bàn tại rừng Ta la song thọ, thành Câu Thi Na . Các đệ tử của Ngài theo tục hoả táng của Ấn Độ đã trà tỳ sanh thân của Phật. Tro tàn thân cốt đã được tụ laị thành những viên đẹp đẽ, chiếu sáng như Ngọc, gọi là Xá Lợi hay Xá Lỵ, chúng ta thường gọi là Ngọc Xá Lợi.

Theo các kinh điển còn để laị , Xá Lợi Phật sau lễ trà tỳ, được đựng trong Tám hộc , Bốn đấu. Giáo hội tăng già lúc bấy giờ đem phân phát cho các nhà Vua và các chùa trong cõi Ấn Độ để tôn thờ và lễ bái. Vào thế kỷ thứ Ba trước Tây lịch , ngài Đại Đế A Dục Vương , một triều đại hưng thịnh bậc nhất của vương quốc Ấn Độ lúc bấy giờ , đã xây dựng vô số cảnh tháp trong toàn cõi Thiên trúc mà tôn thờ những di tích, Xá Lợi của Phật và các Đại đệ tử, Nhờ vaò sự tôn thờ gìn giữ trong các Bảo tháp kiên cố ấy, tiếp nối qua nhiều đời như thế mà Xá Lợi của các Ngài còn mãi lưu truyền qua nhiều quốc độ đến ngày nay.

Nói đến Xá Lợi, chúng ta cần hiểu rằng , Xá Lợi có hai thứ và cũng có hai loại . Hai thứ Xá lợị là: Toàn thân Xá Lợi và Toái thân Xá Lợi. Toàn thân Xá Lợi là báu vật còn nguyên vẹn, ứng thân thị hiện độ sanh của Phật sau khi chư Phật Nhập Niết Bàn Như trường hợp Xá Lợi của Đức Phật Đa Bảo , Ngài vẫn ngồi kiết già trong bảo tháp sau khi tịch diệt . Trong các đời sau hễ có đức Phật nào thuyết pháp, giảng kinh Pháp Hoa thì toàn thân Xá Lợi ấy hiện lại mà nghe kinh.

Toái thân Xá Lợi là Xá Lợi Nát ra. Như trường hợp Xá Lợi của Đức Bổn Sư sau khi trà tỳ, hiện được tôn thờ trong các bảo tháp khắp trên các nước Phật giáo . Hai loại Xá Lợi ấy là gì ? Đó là Sanh thân Xá Lợi và Pháp thân Xá Lợi. Sanh Thân Xá Lợi tức là toàn thân hay Toái thân Xá Lợi kết tụ từ công năng Thiền định , từ ứng thân thị hiện độ sanh của các Đức Phật nhập Niết Bàn để lại Xá Lợi. Chư Thiên và loài người ,ai thờ kính kễ bái, chiêm ngưỡng cúng dường Xá Lợi thì được phước báu rất lớn đó là Sanh thân Xá Lợi. Còn Pháp Thân Xá Lợi là gì ? tức là các kinh điển Đại Thừa , Tiểu Thừa mà Đức Phật đã thuyết Pháp trong thời gian giáo hóa độ sanh , nay còn để lại cho chúng sanh nương vào đó mà tu học , thọ trì ,gìn giữ . Đó là Ba tạng kinh điển mà ngày nay Phật tử tu học , tôn thờ trì tụng đều được phước đức rất lớn lợi lạc cho mình và cho mọi người -phước đức lợi lạc trong việc tôn thờ , chiêm bái , cúng dường Xá Lợi.Xét về tha lực thì chư Phật và Chư Bồ Tát do công năng thiền định như đã trình bày ở trên mà năng lực thì vi diệu cảm hóa đến mọi người ,mọi loài – Xét về tự lực , thì thông qua việc chiêm bái đãnh lễ cúng dường thì đấy là phương tiện để chúng ta quán chiếu laị Sở năng và Sở độ của mình trên bước đường tu tập, dựa trên căn bản của đạo đức và lòng trung hiếu của mỗi người , mà thị nhân sự cảm ứng bằng các màu sắc khác nhau.

Do đâu mà có những màu sắc khác nhau như thế ? Chúng ta nên hiểu đây chính là hiện tượng Vật lý có trong tự nhiên . Trong quá trình 2500 năm , Xá Lơị được tôn thờ trên các Bảo Tháp và thường xuyên hấp thụ quang phổ của mặt trời . Quang phổ mặt trời căn bản đã có đủ bảy màu như bảy sắc cầu vồng : Đỏ, Cam ,Vàng, Lục , Lam , Chàm , Tím kết hợp bảy sắc đó là sắc trắng tinh anh hay còn gọi là ánh sáng trắng mặt trời . Vì vậy ,tự nơi Xá lơị đã tích tụ bằng hai yếu tố là : Năng lực Thiền Định và Năng lượng mặt Trờì, tiềm ẩn như lực từ trường của vũ trụ có trong thiên nhiên . Để cảm ứng được những màu sắc ấy khi chiêm bái cần có một yếu tố thứ ba nữa là Năng lực của mỗi chúng ta. Năng lực ấy có được hay không còn tùy theo mức độ tu học , lòng hiếu hạnh vị tha cũng như Đức kham nhẫn của mỗi người mà mầu sắc thấy được có sai khác không giống nhau . Có người thấy màu Vàng mà không thấy màu Xanh, không thấy màu Tím vv… Sai khác ấy là do cơ tánh đã huân tập của mỗi người trong cả một quá trình , kiên tâm , định tính . Giải thích vấn đề này, xin dẫn một vài ví dụ như sau : Trong Tăng chi bộ kinh , Đức Phật có ví: “ Này chư tỳ kheo, trên thế gian này có bốn loại chuột ; Một là làm hang mà nó không ở , Hai là : Ở mà không làm hang , Ba là không làm hang mà cũng không ở, Bốn là: Vừa ở vừa làm hang”. Nghe xong Ngài A Nan liền cầu xin đức Thế tôn giảng giải .

Phật dạy : Này chư Tỳ kheo: Cha mẹ ta đó , khi thành gia thất đã cố gắng xây dựng sự nghiệp, mong sao cho gia đình mình có được những tiện nghi tối thiểu. Như chúng ta đây , nhiều người tuổi đã cao , sức đã yếu , nhưng việc kiến tạo gia đình vẫn chưa được như ý, vẫn miệt mài lo toan, phấn đấu. Ngày tháng thoi đưa, thân như chiếc lá vàng khô, đến lúc nhắm mắt xuôi tay thì nằm lại nơi chốn đồng hoang lạnh lẽo. Như vậy có phải đây là lọai chuột làm hang mà chẳng ở hang không ?

Cha mẹ sinh con ra, cưng như trứng , hứng như hoa, lo cho con ăn học, mong sao cho con thành danh , thành nghiệp , nên phận ,nên danh ở cuộc đời, đến lúc công thành danh tọai, thì cha mẹ không còn nữa , đưa lại tài sẳn cho người con hưởng thụ . Người con thừa hưởng tài sẳn ấy có phải là lọai chuột ở mà không làm hang hay không ?

Người con, khúc ruột mà cha mẹ cắt da xẻ thịt để sinh ra , nuôi cho khôn lớn , không đở đần gì cho cha mẹ , lại hoang đàng , ngỗ nghịch, không ăn lời nghe tiếng, biền biệt , rong ruổi ,chơi bời , trác táng . Hể cha mẹ động đến thì cãi lại , đi hoang , vậy có phải đấy chính là lọai chuột không làm hang mà cũng không ở hay không ?

Lọai vừa làm hang , mà cũng vừa ở , chính là những người biết đỡ đần phụ giúp cha mẹ , san sẻ những nhọc nhằn , lo âu với cha mẹ . Đến lúc cha mẹ về già thì lo phụng dưởng , đến lúc cha mẹ quá vãng thì lo mả đẹp mồ yên , chăm phần hương khói , lại luôn giữ gìn những gì cha mẹ để lại mà không ngừng tô bồi phát triển .

Vì thế cho nên : “Những ai đã đổ mồ hôi , sức lực của chính mình , làm việc thay thế cho cha mẹ , gánh vác thay cho cha mẹ những việc nhọc nhằn vất vả ở đời lại còn lo phụng dưỡng , báo đáp ân sâu thì khi chiêm bái Ngọc Xá Lợi thì sẽ thấy được màu Vàng hiện lên rực rỡ. Cho nên , Trong Tăng Chi Bộ Kinh có đọan : “Một vai cõng cha , một vai cõng mẹ trăm năm như vậy cũng không trả chữ Hiếu được đâu , lấy tất cả các Quốc độ trên năm châu này cho cha mẹ làm vua cũng không trả chữ Hiếu được đâu” . Bởi vậy Đức Phật dạy rằng : “Các con không hiểu nổi đâu – Các con không hiểu nổi tình thương của cha mẹ đối với con đâu. Một khi đã hiểu được rối thì hởi ơi ! Cha mẹ đã gần đất xa trời , cận địa viễn thiên , nan chi âm tức”. Nghĩ đến như vậy , thì trong chúng ta đây ai lại chẳng chạnh lòng , chạnh lòng bởi vì thời gian trôi đi chúng ta đã lãng phí rất nhiều sự đền đáp ân sâu ấy với cha mẹ . Như khi lớn khôn, trai có vợ thì chăm lo cuộc sống gia đình riêng của mình , gái có chồng thì biền biệt chân mây, thỏang nhớ về cha mẹ thì lòng đau mà ứa lệ, chứ làm sao mà phụng dưỡng, chăm lo .Một điều nghịch lý nữa là , cha mẹ chấp nhận gian khỗ để nuôi dạy một đàn con khôn lớn , nuôi cho đến cạn kiệt sức mình và lo đến độ chẳng còn muốn biết đến mình . Ấy mà làm con, lắm khi lại chẳng nuôi nổi cha mẹ mình là vậy . Nhưng cũng dể hiểu ,vì rằng nước ở trên cao đổ xuống như một định luật tự nhiên . Nước ở dưới đất đổ lên thật là hiếm hoi khó kiếm . “ Cha mẹ nuôi connhư biển hồ lai láng . Con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày”. Nhưvậy thử hỏi những người con như thế có xứng đáng gì với cái hạnh phúc gia đình mình hay không – Và như vậy,thì làm sao mà mong thấy màu Vàng khi chiêm bái Ngọc Xá Lợi.

Câu chuyện về Hàn Bá Dung thuở xưa cũng cần nên nhắc lại để chúng ta thấy được cái lòng chí hiếu chí thành của chàng .Vì qúa nghèo nên người ta viết vào trán chử “Hàn” , nên gọi là Hàn Bá Dung . Tuy vậy chàng ta có được cái đức . Ai thuê mướn làm xa thì không chịu , chỉ mong làm gần để nếu nghỉ ngơi được dăm ba phút thì chạy về pha trà , dâng nước cho cha mẹ . Được chút ít tiền công thì liền dùng để mua sắm cho cha mẹ với tấm lòng thơm thảo , rồi quỳ gối chắp tay mà xin cha mẹ tha thứ cho những gì mà mình chưa làm được cho cha mẹ …. Trong mỗi chúng ta , có ai đã từng dùng những đồng tiền mồ hôi công sức của mình để nuôi dưởng cha mẹ như Hàn Bá dung hay không ? Bỏ ra năm mười ngàn để mua đồng qùa tấm bánh dâng cho cha mẹ có dễ hơn bỏ ra năm ba chục một trăm thậm chí cả tháng lương để vung vít với bạn bè với thiên hạ hay không ? Quả là rất khó !

Do vậy nếu chiêm bái Ngọc Xá Lợi mà không thấy màu vàng thì hãy mau mau về quỳ dưới chân cha mẹ mà sám hối rồi thực hiện cho đầy đủ bổn phận của mình với cha mẹ . Được như thế, ta sẽ thấy được màu Vàng óng ánh rực rỡ trở lại . Cho nên , Ngọc Xá Lợi là một Phật bảo vi diệu phản hồi tâm tư , hiện rõ hiếu tánh mổi khi ta chiêm ngưỡng .

Dẫn dụ thứ hai là một câu chuyện về tiền thân của Đức Phật . Khi Ngài còn là một vị Bồ Tát ,mẹ Ngài sinh ra chỉ có mình Ngài mà thôi .Mẹ Ngài bị mắc bệnh Hòang đản(tức bệnh vàng da). Bịnh này do gan không tiết ra được mật . Lúc đó, Ngài tìm gặp lương y cầu xin chữa trị , vị lương y ấy bảo , phải có lá gan của người con mới chữa trị được . Tưởng đâu có năm ba người con , nhưng hóa ra chỉ có mình Ngài .Như vậy ,Ngài vẫn một mực qùy xuống và cầu xin vị lương y ấy cứu chữa cho mẹ , rồi trở về cậy nhờ người bạn lo việc sắc thuốc để dâng cho mẹ . Sắp đặt xong Ngài liền cầm dao rạch bụng , móc lấy lá gan của mình để làm thuốc cho mẹ uống .

Qua câu chuyện trên, đã cho ta thấy sự hy sinh đến cả thân mạng mình để đem lại bình an cho cha mẹ. Những hy sinh như vậy cho dù là đã xảy ra trong quá khứ hay hiện tại này cũng đều được phản ảnh bằng một màu đỏ rực rỡ khi chiêm bái Ngọc Xá Lợi.

Trong mõi chúng ta ,sự hy sinh về vật chất cho cha mẹ,nhiều khi vẫn còn hiếm hoi,chứ chưa nói đến chuyện hy sinh đến cả thân mạng mìnhcho cha mẹ được yên vui.Câu chuyện trên chỉ là một biểu tượng của sự hy sinh.Trong đời sống thường ngày chúng ta vẫn nghe và vẫn thấy có lắm sự hy sinh thân mạng mình để đem bình an đến cho người khác,như những trường hợp hy sinh để gìn giữ trật tự xã hội, để cứu giúp đồng bào bị lũ lụt, để dập lửa cứu cháy vv…Có những trường hợp không trực tiếp hy sinh bằng thân mạng,nhưng đã dùng đồng tiền,dùng tài vật do chính mồ hôi và nước mắt mình làm ra để đóng góp vào những việc như vậy.Những trường hợp ấy cũng được xem là những hành động cao cả,xứng đáng để cảm ứng được màu Đỏ của Ngọc Xá Lợi khi chiêm bái.Do vậy cho nên,mỗi một màu sắc của Ngọc,thể hiện và phản ánh tấm lòng của mỗi người.Chúng ta, nếu chưa từng bao giờ có sự hy sinh như vậy,luôn sống dựa vào cộng đồng xã hội, lười biếng,không ham làm,ham cống hiến mà chỉ muốn hưởng thụ,lại còn muốn ăn trên ngồi trước, đè đầu cởi cổ người khác,bất hiếu cới cha mẹ,thậm chí còn giết cả cha mẹ mình,giết hại muôn loài chúng sinh thì làm sao mà mong thấy được màu Đỏ của Ngọc khi chiêm bái.

Dẫn dụ thứ ba:Cũng trong Tăng Chi Bộ Kinh, đức Phật có dạy:Này chư Tỳ kheo.Trên thế gian này,ai làm được của tiền phải chia làm năm phần:

1.Trả nợ cũ chúng tôi vay nợ mới 3. Đổ xuống hố sâu 4.Trải trên mặt đất 5.Chôn của để dành.

Cha mẹ nuôi con,gian lao, khổ nhọc,cho nên món nợ đối với cha mẹ là vô cùng tận,công cha như núi Thái sơn,nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Việc báo đáp lại cái ơn sâu như thế được xem như là trả đi cái nợ cũ ấy. Đối với cha mẹ mình,thì ngoài trách nhiệm làm con,còn có thêm một trách nhiệm nữa là làm bố,làm mẹ,việc chăm sóc, nuôi dưỡng,dạy dỗ con cái mình như cha mẹ đã từng làm cho mình, ấy chính là cho vay nợ mới.

Để tồn tại trong cuộc sống này,cần phải ăn uống.Ngày đi, tháng lại. Ăn hoài, ăn mãi, ba bữa chính cộng thêm vài bữa phụ,cái ăn như ông bà ta đã nói “Đến núi cũng phải lở”, từ lớn đến bé,trong gia đình mỗi một cái miệng là một cái hố sâu,lo cái ăn không nhiều khi muốn chết dở, đổ mãi mà chẳng đầy,như vậy có phải là đổ xuống hố sâu hay không?

Đã thế cuộc sống không chỉ phải lo cái ăn không mà đủ.Bên cạnh đó, nào là quan hệ cộng đồng ,xã hội, bạn bè, bằng hữu, hòn bấc ném đi hòn chì ném lại,cưới xin,hiếu hỷ, đau ốm,viếng thăm…Miệng thì ngỏ lời thăm nhưng tay thì chìa cái gói.Như vậy cái của cải bỏ ra chính là đem trải đều trên mặt đất.

Tùy theo khả năng, bất cứ một ai cũng đều tính đến chuyện dự phòng,do vậy người ta hay nói” ăn bữa nay còn phải tính bữa mai” hoặc là: ”Tích cốc phòng cơ,tích y phòng hàn”. Đây chỉ mới nói về cái ăn cái mặc.Người ta còn nghĩ đến chuyện mua sắm tư trang,cất giữ để dành.Việc để dành như vậy cũng tốt,nhưng vật chất ở thế gian này rồi sẽ hư hoại cả,chưa đúng với tinh thần để dành của Nhà Phật. Đức Phật dạy:

“Vui thay phụng dưỡng mẹ cha Sa môn phụng dưỡng lại là vui hơn Vui thay phụng dưỡng thánh nhân Thế gian tắm gội nguồn ân hạnh lành”.

Như vậy,việc làm phước,cúng dường một cách chân chính đến với cha mẹ,Sa Môn,Thánh nhân cũng như giúp đỡ muôn loài chúng sinh theo khả năng có được của mình ấy chính là chôn của để dành và của ấy sẽ được hưởng lại mãi tới các đời chúng tôi vậy,những ai chu toàn được tình cảm,trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình(cái gia đình lớn của mình) đối với cộng đồng xã hội. Tùy theo vị trí của mỗi người, người ấy có thể là cha, là mẹ, là con, là quyến thuộc, là bằng hữu vv…Luôn giúp đỡ lẫn nhau, sống hòa thuận cùng nhau, tình cảm, trách nhiệm, thực hiện và bảo vệ hạnh phúc gia đình,hạnh phúc cộng đồng,hoặc những tập thể sống chung với nhau như gia đình trên tinh thần Lục Hòa mà Đức Phật đã dạy thì chúng ta sẽ thấy được màu xanh Ngọc (hay xanh lợt) khi chiêm bái. Ai chưa thấy được, ấy chính là trong cuộc sống của mình còn nhiều chỗ bừa bãi,chưa thực hiện đầy đủ những bổn phận và trách nhiệm của chính mình.

Cũng bằng năm bổn phận như đã vừa nêu trên,bây giờ chúng ta lại căn cứ vào vị trí làm người của mình mà thọ lãnh một trách nhiệm khác nhau trong gia đình.Vai trò ấy là người con, đặt giả dụ đó là người con trai khi đã lập gia đình,ngoài trách nhiệm làm chồng bằng năm bổn phận còn có thêm một trách nhiệm làm cha cũng có năm bổn phận.Nếu như năm phận đầu ta làm chưa xong thì năm phận sau ta làm sao cho tròn. Những ai làm tròn được tất cả các bổn phận ấy đối với cha mẹ,vợ con,thực sự là rường cột của gia đình thì gia đình ấy thực sự hạnh phúc như Đức Phật nói: “Ở đây có một người Tiên Nam, sống chung với một người Tiên Nữ và một đàn Tiên con”.Ngược lại những ai phủ nhận hoặc rũ bỏ những trách nhiệm ấy,suốt ngày đam mê vào rượu chè, tửu sắc, cờ bạc, rong chơi, bất hiếu với cha mẹ, bất thuận với anh em ,mắng con chửi vợ thì như Đức Phật nói rằng: “Ở đây có một nàng Tiên nữ, sống với một đàn Tiên con, bên cạnh thằng quỷ sứ” Có lẽ,trong chúng ta đây,không một ai mong muốn điều đó xảy ra. Vì rằng trách nhiệm đối với gia điình là trách nhiệm sát sườn nhất,không bằng lòng nhau mà vẫn cứ phải đối mặt với nhau từng ngày thì có nỗi khổ nào sánh bằng? Oán Tăng hội khổ chính là đây!Và như vậy, thì làm sao mà mong thấy được màu Xanh đậm khi chiêm bái Ngọc Xá Lợi.

Dẫn dụ thứ năm:Một câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi còn là Đạo sĩ.Ngài tu thiền ở một khu rừng nọ.Một hôm có Đức vua, đoàn tùy tùng,cùng vô số các cung tần mỹ nữ đi qua. Thấy Ngài,các cung tần mỹ nữ liền lại hỏi đạo. Ngài đã giảng giải về Đức kham nhẫn ở đời. Vì muốn làm được việc gì cũng có cần phải có sự kham nhẫn mới mong thành tựu được. Nếu không có sự kham nhẫn ấy thì hay bị bỏ dở giữa chừng. Khi ấy, Đức Vua đi tới ,nghe thấy Ngài giảng về Đức kham nhẫn như vậy liền nỗi giận,rút kiếm chỉ vào và hỏi:

“Này đạo sĩ,ngươi dạy những người này cái gì?Tâu bệ hạ,bần đạo dạy về Đức kham nhẫn-Nghe xong Đức vua liền sai quan quân đè xuống đánh đủ một ngàn roi, thịt rơi máu đổ,vậy mà Đạo sĩ vẫn nói rằng: “Tâu bệ hạ, bệ hạ đừng tưởng Đức kham nhẫn ở ngoài lằn da thớ thịt của bần đạo,mà nó ở trong tủy, trong xương của bần đạo. Đức vua càng sân hận tột cùng, sai quân hộ giá chặt hai và chân hai tay của Đạo sĩ, Đạo sĩ lại tâu: Không phải kham nhẫn nó ở tay ở chân bần đạo, Đức vua lúc ấy càng giận dữ,sai người xẻo tai,cắt mũi,máu đổ đầm đìa. Đạo sĩ lại tâu:Không phải nó ở tai, ở mũi,mà nó ở tận từ nơi trái tim của bần đạo-Đức vua điên tiết liền leo lên người nhảy dậm đến nỗi máu me phun trào cả ra. Chịu đựng nỗi dày vò đau đớn như vậy, cho đến lúc có một vị đại quan đến băng bó vết thương thì vị này nói rằng: Xin Ngài đừng vì Đức vua mà oán hận chúng tôi. Đạo sĩ trả lời:Không đâu, bần đạo chỉ mong sao cho Đức vua được an vui và hạnh phúc”.

Như vậy chỉ bằng tinh thần bao dung,từ bi tột độ và hỷ xả vô cùng của đấng làm cha,mới được như vậy.Qua câu chuyện trên,Nếu ai có được Đức Kham nhẫn đối với gia đình, đối với ông bà, cha mẹ,anh em bằng hữu vv…Siêng năng làm việc,phụng sự cho đời,cho đạo thì sẽ thấy được Màu Tím hoa cà khi chiêm bái Ngọc Xá Lợi (trong kinh dịch là màu chân chim khổng tước) và thấy một cách óng ánh rực rỡ.

Dẫn dụ thứ sáu:Có một xứ biên địa,mười lăm năm không khi nào có một giọt mưa,ngược lại xứ bên kia,nơi có vị bồ Tát trị vì,thì mưa hai ngày, nắng ba ngày,cứ đều đều như thế,cho nên người dân biết rõ khi nào nắng,khi nào mưa,vạn vật tươi tốt, cây trái xum xuê- Người dân xứ khô hạn đi qua bên này xin giới Đức. Đây tượng trưng cho giới trong sạch. Đức vua xứ này nói: “Này các Bà la môn,Ta truyền giới cho các ngươi,nhưng lát nữa đây các ngươi hãy lên Mẫu hậu ta mà xin giới đức”.Bọn người kia liền hỏi tại sao Đức vua giới đức lại không trong sạch-Đức vua nói:Ta mới làm lễ Quán đỉnh và vừa bắn bốn mũi tên đi bốn phương trời-Ta ra lệnh đi tìm nhưng chỉ thấy có ba,còn mũi tên ra biển không tìm lại được-Ta nghĩ, nó đã rơi phải loài cá nào và hẳn là đã bị chết. Chỉ vì mũi tên ấy mà Đức vua cảm thấy mình giới đức không được trong sạch, cho nên chỉ truyền thôi mà không dám trao giới.

Khi bọn người kia gặp mẫu hậu thì bà trả lời:Ta cũng không được trong sạch,là vì ta có hai người con dâu-Mới rồi, dâu Phó vương dâng cho ta một chai nước thơm và một vòng hoa đáng giá ngàn đồng vàng. Ta nghĩ:Dâu Phó vương nó nghèo mà còn dâng cho ta như vậy.Ta hổ thẹn, tại sao ta giữ giới mà còn có ý nghĩ phân biệt giàu nghèo? Các ngươi hãy đến gặp nàng Phó vương mà xin giới đức.

Bọn người kia gặp nàng Phó vương.Bà ta trả lời:Ta giữ giới cũng không được trong sạch…Vì hôm qua, tất cả đoàn xe giá đã vào thăm hoàng huynh ta…’’

Qua câu chuyện trên chúng ta nghĩ sao về các nhân vật trong quá trình gìn giữ giới đức. Do vậy, chỉ có sự trong sáng,ngay thẳng,thành thật ,tu theo Bát chánh đạo và gìn giữ những giới luật thọ nhận cũng như nghiêm chĩnh chấp hành luật pháp của Quốc gia,không chớt nhả buông lung,không ơ hờ chiếu lệ,thì khi chiêm bái Ngọc Xá Lợi chúng ta sẽ thấy được màu trắng tinh anh,rực rỡ tỏa ra những tia sáng như kim cương vậy. Xá Lợi của Tôn Giả Mục Kiền Liên

Qua những dẫn dụ tóm tắt như trên để chúng ta thấy rằng ;Tu theo đạo Phật, trước nhất phải làm tròn cái bổn phận tại gia cho xong rồi mới từng bứơc tiến sâu vào những phần hành khác để mà tu tập. Không nên đi cao quá mà bỏ mất phần chân giống như xây nhà trên cát. Cũng đừng nên nghĩ rằng,Tiệm tu làm gì cho dài dòng, khổ cực; mà hãy đốn tu cho lẹ bước thang mây. Không dễ như vậy đâu.Thành đạt được hay không trên lộ trình tu tập,chúng ta còn phải cậy nhờ nhiều vào Đức Kham nhẫn của mỗi người.

Thờ phượng và chiêm bái Ngọc Xá Lợi chúng ta có được phước đức như thế nào? Trong Kinh Xá Lợi Đức Phật dạy:

“ Ngàn năm muôn kiếp một giờ Trước đền Xá Lợi phỉ mơ ước nguyền Trầm hương lễ bái hiện tiền Cúng dường Xá Lợi gieo duyên Niết Bàn”

Bằng tất cả tấm lòng thành kính của mình với Ngũ phần hương dâng hiến cúng dường,cầu nguyện thì tất cả mọi sở cầu sẽ như ý-Ngài còn dạy: “Làng mạc đây,núi rừng kia, thung lũng nọ,lối về non cao. Ngọc Xá Lợi trú nơi nào,dân cư chốn ấy xiết bao an lành.”

Do vậy Ngọc Xá Lợi an trú nơi nào, cho dù chỉ một ngày,một giờ, một khoảnh khắc thì lợi lạc không sao kể xiết được.Cũng cần nhắc lại, Ngọc Xá Lợi là Phật bảo duy nhất,không thể có lại được và hiện đang tồn tại nơi thế gian này.Trong Kinh Di Giáo Ngài dặn: Xá Lợi của ta sẽ chia làm ba phần:Một phần cho Thiên cung,một phần cho Long vương và một phần cho Tám vị Quốc vương ở xứ Ấn Độ-Vì thế cho nên,Thiỉnh được Ngọc để tôn thờ lễ bái đã khó, nhưng gìn giữ Ngọc lại càng khó hơn,vì chư Thiên có thể lấy đi bất cứ lúc nào.Có những nơi vì quá thiết tha,mong cầu được thờ phụng Ngọc Xá Lợi, nơi ấy kiến tạo bảo tháp đồng thời đồng tâm cung kính cúng dường lễ bái,mặc dù chưa có được Ngọc để tôn thờ. Vì quá thiết tha như vậy, nên một thời gian sau,chư Thiên đã ban cho và Ngọc tự có được. Có nơi, Ngọc đã có để tôn thờ,nhưng nơi ấy chúng sinh bất thuận lẫn nhau,Tăng chúng buông lung giới đức,tu tập lơ là,lễ bái chiếu lệ,vv…thì chư Thiên sẽ tự lấy đi và Ngọc biến mất. Xá Lợi của Các Vị A La hán

Chúng ta sinh ra không cùng thời với Đức Phật,nhưng chúng ta lại được lễ lạy Pháp thân thường trú của Đức Phật thông qua việc chiêm bái Xá Lợi -Sự kiện đó có thể khẳng định việc giao duyên vào cõi Niết Bàn đồng với chư Phật là một hướng đi đã mở ngay trước mắt-Mỗi một người con Phật,còn đợi chờ gì nữa mà không dùng nước Thủy Giác của chư Phật để tắm gội thân tâm mà bước vào hoan lộ thênh thang ấy. Nước Thủy Giác ấy ở đâu? Nước ấy ở ngay trong chính chúng ta bằng sáu điều dẫn dụ đã nói trên .Cũng đừng nghĩ rằng “Phật tại tâm” hoặc “ Phật đâu có ở nơi xa-Trong tâm có Phật mà ta không tìm”.

Nếu cái tâm Ta bà ấy nhầy nhụa tội lỗi,che đậy bằng những hào nhoáng của thế gian thì chỉ có chúng ta mắc lừa lẫn nhau chứ chư Phật, chư Đại Bồ Tát làm sao mà mắc lừa nổi và làm sao mà chư Phật có thể trú ngụ trong những cái tâm như vậy.Muốn xác định điều này,chúng ra hãy chiêm bái Ngọc Xá Lợi -Vì khi chiêm bái, Ngọc sẽ phản ánh lại tâm tư,hiện rõ sự hiểu tánh bằng các màu sắc khác chúng tôi chiêm ngưỡng,người đó sẽ tự cảm nhận được,và kết quả của sự cảm nhận được là lời giải đáp rất bí mật, rất riêng tư cho từng người (Nên chiêm bái vào ban ngày và cố tránh đừng để ảo giác chi phối).

Còn những ai khi chiêm bái Ngọc Xá Lợi (chiêm bái đúng cách)mà chưa nhận được những điều tốt đẹp,mầu nhiệm ở trên thì hãy nghiền ngẫm về chính mình.Chúng ta hãy thành tâm sửa chữa, sám hối ăn năn thì phước báu ấy lại được trổ chúng tôi vì hiếu kỳ mà chiêm ngưỡng thì thiện pháp không sinh, sắc màu không ứng và nếu không nghiêm túc kiểm điểm lại chính mình,có hướng sửa chữa,khắc phục thì:

Dù cho bay vút lưng Trời Dù cho đáy biển trốn thời được đâu Dù cho núi thẳm hang sâu Không sao tránh khỏi quả sầu đã gieo

Bạn đang đọc nội dung bài viết Xá Lợi Phật Là Gì? Thần Lực Của Xá Lợi Phật Có Thật Không? trên website Shareheartbeat.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!