Top 11 # Xem Nhiều Nhất Ý Nghĩa Nhan Đề Viếng Lăng Bác Facebook Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Shareheartbeat.com

Ý Nghĩa Nhan Đề Chiếc Thuyền Ngoài Xa

“Chiếc thuyền ngoài xa” là nhan đề một truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Minh Châu, trước in trong tập Bến quê (1985), sau được dùng đặt tên cho cả tập truyện ngắn gồm 15 truyện do nhà xuất bản Tác phẩm mới ấn hành năm 1987. Thiên truyện được đưa vào giảng dạy trong chương trình văn học lớp 12 phổ thông, cả ban khoa học xã hội – nhân văn lẫn ban cơ bản.

Đặt vấn đề tìm hiểu ý nghĩa nhan đề một truyện ngắn hoàn toàn không phải là một cái gì mới mẻ bởi lẽ sự hoàn chỉnh về nội dung được thể hiện ngay trong ý nghĩa mà đầu đề văn bản chỉ ra, đặc biệt là với các văn bản nghệ thuật vốn thường mang những nhan đề hàm ẩn. Vậy nhan đề ấy – Chiếc thuyền ngoài xa- có ý nghĩa như thế nào?

Ý nghĩa nhan đề Chiếc thuyền ngoài xa

Những nhan đề loại này đòi hỏi người tiếp nhận phải suy nghĩ, liên tưởng mới có thể hiểu được ý nghĩa của chúng. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều người cho rằng nhan đề là nội dung cô đọng, hàm súc, phản ánh trung thành nội dung văn bản. Có khi nhan đề phản ánh các đối tượng trình bày, có khi phản ánh quan niệm, cách nhìn của tác giả đối với đối tượng, có khi lại là sự kết hợp của rất nhiều nhân tố nhưng dù trong bất kì trường hợp nào, tất cả các nhan đề đều phải được rút ra, được khái quát từ chính nội dung văn bản.

Trong văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Minh Châu có vinh dự là người ” thuộc trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất” ( Nguyên Ngọc) cho công cuộc đổi mới văn học sau 1975. Trong nhà trường, hai tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đã được đưa bộ sách cải cách trước đây ( Bức tranh ở cấp trung học cơ sở và Mảnh trăng cuối rừng ở cấp trung học phổ thông) và lần thay sách này, giáo viên và học sinh lại được tiếp cận hai tác phẩm khác- Bến quê ở cấp trung học cơ sở và Chiếc thuyền ngoài xa ở trung học phổ thông.

Hầu như các truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong chương trình trung học phổ thông đều mang những nhan đề vừa cụ thể lại vừa có ý nghĩa biểu tượng. Nếu như Mảnh trăng cuối rừng vừa là một hình ảnh thực được miêu tả trong truyện và trở đi trở lại nhiều lần, thành hình ảnh nổi bật và bao trùm toàn bộ khung cảnh của câu chuyện, vừa mang ý nghĩa biểu tượng cho nữ nhân vật chính- Nguyệt thì ” Chiếc thuyền ngoài xa” cũng có phần giống như thế

1- Chiếc thuyền ngoài xa là chiếc thuyền thực hay chiếc thuyền trong bức ảnh nghệ thuật?

Phần vào chuyện kể trọn vẹn sự cần thiết phải có bức ảnh. Nguyên là người trưởng phòng của nhân vật ” tôi” ( tên là Phùng – nhân vật người kể chuyện) “là người sâu sắc, lại cũng lắm sáng kiến”, anh ta đã đề xuất yêu cầu ” Phải có một bộ sưu tập chuyên đề. 12 tháng là 12 bức ảnh nghệ thuật về thuyền và biển. Không có người. Hoàn toàn thế giới tĩnh vật”. Suốt năm tháng ròng làm việc khá thông đồng bén giọt, tổ nhiếp ảnh nghệ thuật đã mang về không biết cơ man nào là ảnh nhưng cũng chỉ có 11 bức được lọt vào cặp mắt xanh của viên trưởng phòng ” sâu sắc nước đời”. Một bức ảnh thiếu hụt oái oăm kia được trưởng phòng tin cẩn giao cho ” tôi” phải săn tìm cho được. Mà là tấm ảnh chụp có ” sương biển” giữa mùa tháng bảy – dường như thường ” chỉ có bão táp với biển động”. Thật là một vụ gieo trồng trái thời vụ vì “tôi” quá biết ” Muốn lấy sương thì phải nghĩ đến từ tháng ba cơ!”.

Nhưng rồi ” khi nên trời cũng chiều người”, ” tôi” đã trở lại vùng biển chiến trường xưa, cách Hà Nội sáu trăm cây số” và vác máy nằm “phục kích” ở chính cái nơi mà ” dường như trong suốt dải bờ biển khắp cả nước, chỉ ở đây vào giữa tháng bảy là còn sương mù”. Đây cũng còn là quê của một đồng đội cũ của ” tôi”, giờ đang là Chánh án toàn án huyện. Thật là gồm đủ thiên thời, địa lợi, nhân hoà”. Và ” tôi” đã bỏ qua nhiều cảnh có ‘ không khí vui nhộn hơi thô lỗ và thật hùng tráng” để chớp lấy cái khoảnh khắc ” đắt” trời cho”. Đó là cảnh ” trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn và trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ…”. Nhà nghệ sĩ dạt dào một cảm hứng nghệ thuật, trải qua một khoảnh khắc yên-sĩ -phi -lí thuần tuyệt diệu: ” toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và tòan bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào? (…). Trong giây phút bối rối, tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn.”. Và tuyệt tác đã ra đời trong sự hưng phấn nghệ thuật – ” cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình, do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại”. Rất cần chú ý thành phần phụ chú ” do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại” trong lời kể chuyện. Niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ chính là cái hạnh phúc của khám phá và sáng tạo, của cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu. Dường như trong hình ảnh chiếc thuyền giữa biển mờ sương, anh đã bắt gặp cái tận Thiện, tận Mĩ, thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên thật trong trẻo, tinh khôi bởi cái đẹp hài hoà, lãng mạn của cuộc đời

Như thế, xét riêng về công vụ, nhiệm vụ của “tôi” lúc này đã hoàn thành. “Tôi” đã có cảnh thuyền và biển trong sương đúng như đặt hàng của trưởng phòng, mặc dù giữa mùa tháng bảy! Và ‘ tôi” đã có thể ung dung ” nhảy lên tàu hoả trở về”. Nếu khéo liên hệ một tí, ta dễ thấy nếu như ” tôi” về ngay lúc đó khác nào cô Nguyệt ( trong Mảnh trăng cuối rừng) xuống xe ở cầu Đá Xanh.

Phần đầu truyện như thế đủ cho người đọc biết xuất xứ của bức ảnh nghệ thuật đặc sắc trên cuốn lịch năm mới kia ra đời thế nào. Và nếu nghĩ sâu xa hơn thì cũng cần bấy nhiêu ấy cũng đủ cho bộ môn lí luận nghệ thuật khái quát về công phu lao động của nghệ sĩ.

Phần kết truyện cho biết người trưởng phòng rất hài lòng với bức ảnh và bức ảnh không chỉ có tuổi thọ ngang với một cuốn lịch năm mà “mãi mãi về sau, tấm ảnh chụp vẫn còn được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật”. Mở và kết truyện như vậy cho thấy, chiếc thuyền trong ” chiếc thuyền ngoài xa” là chiếc thuyền vừa có thực trong đời, vừa là chiếc thuyền trong bức ảnh nghệ thuật và nó cũng chính là một chi tiết nghệ thuật đắt, không dễ trong đời cầm máy ” tôi” đã có được may mắn thứ hai.

2- Tại sao lại là “chiếc thuyền ngoài xa”?

Theo dòng kể của ‘ tôi” rõ ràng chiếc thuyền được chụp trong một cự li tương đối gần – ” một chiếc thuyền lưới vó…đang chèo thẳng vào trước mặt tôi”- nhà nghệ sĩ nhìn rõ cả “những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó”. Người thưởng thức bức ảnh thông thường chắc không ai không cảm nhận chiếc thuyền đang được chụp trong một cự li gần như thế. Thế nhưng vì sao tác giả lại đặt nhan đề truyện là ” chiếc thuyền ngoài xa”?

Trở lại luận điểm ban đầu về đầu đề văn bản: Nhan đề là nội dung cô đọng, hàm súc, phản ánh trung thành nội dung văn bản. Có khi nhan đề phản ánh các đối tượng trình bày, có khi phản ánh quan niệm, cách nhìn của tác giả đối với đối tượng, có khi lại là sự kết hợp của rất nhiều nhân tố nhưng dù trong bất kì trường hợp nào, tất cả các nhan đề đều phải được rút ra, được khái quát từ chính nội dung văn bản. Nếu như nhan đề chỉ đơn thuần phản ánh các đối tượng thì hẳn chiếc thuyền trong ảnh không phải là ngoài xa! Phải chăng nhan đề đó phản ánh cách nhìn của tác giả đối với đối tượng.

Thật vậy, theo yêu cầu của trưởng phòng, bức ảnh phải săn tìm lần này “Không có người. Hoàn toàn thế giới tĩnh vật” nhưng bức ảnh chụp được lại có ‘ vài bóng người lớn lẫn trẻ con”. Như không sao, dù có người thì người cũng chỉ ” ngồi im phăng phắc như tượng”!

Điều đáng nói là bức ảnh như thế đã ghi nhận được cái gì? Quả là một bức ảnh đẹp được chụp từ một cự li khá gần nhưng cái cách tiếp cận ” thực tế”, tiếp cận ” nguyên mẫu” như thế là cách tiếp cận từ xa vì nhà nghệ sĩ chỉ thu được cái hình hài bên ngoài, cái thơ mộng bên ngoài của cảnh và người. Bởi vì ngay sau khi nhà nghệ sĩ ” săn tìm” được cái đẹp trong cuộc đời để sáng tạo ra cái đẹp nghệ thuật kia, thì anh ta đã phải chứng kiến một cảnh đời cay cực, ngang trái mà không một người bình thường nào có thể ngoảnh mặt làm ngơ, nói chi đến nghệ sĩ vốn được coi là những con người đa cảm, đa mang!

Là nghệ sĩ và đã từng là một người lính, chứng kiến cảnh thằng con – Phác- vì thương mẹ mà đánh lại cha, khi thì bằng chính chiếc thắt lưng của lính nguỵ mà người cha của nó dùng để đánh mẹ nó, khi thì định dùng cả “ám khí” là một con dao găm lận ‘ trong cạp quần đùi”, ” tôi” đã không khoanh tay ngồi nhìn vì ” bất luận trong hoàn cảnh nào, tôi cũng không cho phép hắn đánh một người đàn bà, cho dù đó là vợ và tự nguyện rúc vào trong xó bãi xe tăng kín đáo chio hắn đánh”. Và hậu quả là ‘ tôi” đã bị thương vì người chồng kia chống trả quyết liệt để tự vệ. Vậy cái cảnh thơ mộng đẹp đẽ mà ” tôi” thu được vào ống kính Pratica và cái cái cảnh đời ngang trái mà trong tư cách cựu chiến binh ” tôi” đã chứng kiến và tham dự cái nào cận nhân tình hơn? Do đó ảnh chụp chiếc thuyền thơ mộng kia chẳng phải là kết quả của lối tiếp cận hiện thực từ xa ư? Chiếc thuyền ngoài xa được chụp trong cự li gần là với ý nghĩa như vậy đó!

Chưa hết, do dưỡng thương và nể bạn nên ” tôi” nán lại thêm mấy hôm và chính lần này ” tôi” mới vỡ ra mọi lẽ. Chứng kiến buổi làm việc giữa Đẩu – người đồng đội cũ của ” tôi”, giờ là Chánh án toàn án huyện- và người phụ nữ khốn khổ kia, ‘ tôi mới vỡ ra nhiều lẽ. Thì ra nếu chiếc thuyền chụp được là ” từ xa” thì cái cảnh ” tôi” chứng kiến cũng chỉ là bề nổi của cuộc đời gia đình nhà chài nọ. Vì sao người phụ nữ phải cam chịu một bề, không chống trả những trận “đòn chồng” và cũng không chịu li dị, hiểu theo nghĩa nào đó là không chịu ” giải phóng” mình. Cái lí do chị đưa ra đã đưa hai người cựu chiến binh tốt bụng – một là một nghệ sĩ, một được mệnh danh là một Bao công- đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác:

-” Chị cảm ơn các chú! Đây là chị nói thành thực, chị cảm ơn các chú. Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn…cho nên các chú đâu có hiểu cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc…”

– ” Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão ách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu. giá mà lão uống rượu …thì tôi còn đỡ khổ…Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh”

– ” Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông …Cũng có khi biển động sóng gió chứ?”.

– ‘ Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó- vả lại, ở trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hoà thuận vui vẻ”.

Cái vòng luẩn quẩn của những kiếp người cần lao quả thật đầy bất ngờ đối với ” tôi”, vốn đã trải qua mấy năm chiến đấu tại mảnh đất này, đã giải phóng mảnh đất này và hiện đang là nhà báo từng dong ruổi nhiều nơi! Và ” tôi” cũng nhận ra rằng vì sao ông lão ( cha người phụ nữ) làm nghề sơn tràng ” ở tận trên miền rừng A So” và thằng cháú ngoại lại hay xuất hiện ở miệt biển này và tại sao trong buổi sáng chia tay ” tôi” ông lão luôn “đặt hai con mắt đầy vẻ lo lắng ra ngoài mặt phá, nơi có chiếc thuyền”. Vậy, với tất cả những điều ấy, “chiếc thuyền nghệ thuật” của “tôi” nói được cái gì cận nhân tình chưa hay cũng chỉ là ” chiếc thuyền ngoài xa”? Nhan đề ấy phản ánh quan niệm, cách nhìn của tác giả đối với đối tượng.

Tóm lại, qua thiên truyện và cách đặt tên nhan đề, ta thấy nhân vật ” tôi” vẫn chưa hoàn toàn thoả mãn với những gì ống kính của mình đã thu được. Đằng sau bức ảnh chiếc thuyền thơ mộng ấy còn là những cuộc đời, những con người lầm lụi, khốn khổ đến quẫn trí và giải toả cái quẫn trí ấy bằng những giải pháp hết sức kì quặc. Bức ảnh “thuyền và biển” kia đã nói được gì đâu. Và đó là cách để nhà văn Nguyễn Minh Châu bộc lộ thiên hướng muốn nắm bắt hiện thực ở bề sâu ẩn kín chứa đầy những nghịch lí, mâu thuẫn của đời sống hậu chiến tranh và đó cũng là đặc điểm nổi bật mới mẻ của phong cách Nguyễn Minh Châu, người tiên phong tinh tường và tài ba trên hành trình đổi mới văn học nước nhà. Có thể hiểu ” Con thuyền ngoài xa” là những suy nghĩ da diết về chân lí nghệ thuật và đời sống. Chính khát vọng muốn tìm đến cái đẹp, cái hài hoà, muốn làm cho con người hạnh phúc nhiều khi đã đưa người ta đến chỗ giản đơn hoá không nhận ra cái thực tế khắc nghiệt thì suy cho cùng cũng chỉ là một kiểu ” lướt nhẹ trên bề mặt cuộc sống” chứ đâu đã là thứ nghệ thuật ” là tiếng đau khổ…thoát ra từ những kiếp lầm than” ( Nam Cao- Trăng sáng).

Từ đó, có thể phát hiện ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa: Khi con thuyền là đối tượng của nghệ thuật thì có thể được chiếm lĩnh từ xa, một khoảng cách đủ để tạo nên vẻ đẹp huyền ảo, nhưng sự thực cuộc đời cần phải được chiếm lĩnh ở cự li gần. Đừng vì nghệ thuật thuần tuý mà bỏ quên cuộc đời, bởi lẽ nghệ thuật chân chính luôn là cuộc đời và vì cuộc đời. Trước khi là một nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp, hãy là một con người biết yêu ghét, vui buồn trước cuộc đời, biết hành động để có một cuộc sống xứng đáng với con người. Với ý nghĩa ấy, phần nào gợi ra những liên tưởng tương đồng với truyện ” Trăng sáng” của nhà văn Nam Cao.

Ý Nghĩa Nhan Đề “Vợ Nhặt” Của Nhà Văn Kim Lân

Ý nghĩa nhan đề “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân

Kim Lân đã chọn cho đứa con tinh thần của mình là từ “Vợ nhặt”. Đây là một từ ghép phân nghĩa được ghép bởi danh từ “vợ” và động từ “nhặt”. Khi 2 từ đơn này được kết hợp với nhau, động từ nhặt lại ngay lập tức chuyển đổi từ động từ sang tính từ. “Vợ nhặt” ở đây dùng để định danh một loại vợ, đó là vợ theo không, người vợ không mai mối, không lễ nghĩa cưới xin. Bởi chỉ cần nhắc tới từ “nhặt” thôi chúng ta đã có rất nhiều những liên tưởng khác nhau. Bởi lẽ, chúng ta chỉ thường biết tới việc nhặt nhạnh bông hoa, nhặt cái cây, nhặt cọng rơm ngọn cỏ, thế nhưng ở đây, có một sự thật thật trớ trêu và bi hài đó là nhặt được vợ

Nhan đề “Vợ nhặt” gắn chặt với bối cảnh lịch sử ra đời của tác phẩm đó là hoàn cảnh, số phận thê thảm của những người phụ nữ trong nạn đói năm 1945. Chỉ với 2 lần gặp gỡ, 4 bát bánh đúc, vài câu nói tầm phơ tầm phào mà đã nên duyên vợ chồng. Ẩn chứa sau nhan đề “Vợ nhặt” là những suy ngẫm của tác giả, đó là sự trăn trở, xót xa trước giá trị thấp kém của con người trong hoàn cảnh éo le, bi kịch.

Nhan đề gợi tình huống éo le, kích thích trí tò mò người đọc. Thông thường, chúng ta chỉ thường thấy từ “vợ” đi với những từ như “vợ yêu, vợ đẹp,…” nhưng ở đây lại lại “vợ nhặt” chưa bao giờ giá trị của con lại rẻ rung đến như thế. Bởi việc dựng vợ gả chồng là việc lớn, thiêng liêng, có ăn hỏi, có cưới xin theo phong tục truyền thống của người Việt, không thể qua quýt, coi như trò đùa.

Nhan đề “Vợ nhặt” gợi lại thực nạn đói khủng khiếp năm 1945. Từ đó, thấy được sự tàn bạo của chế độ thực dân, phát xít, thấy giá trị con người rẻ rúng – người ta có thể nhặt được như cọng rơm, cọng rác ngoài đường. Thế nhưng chính câu chuyện này cũng đã bộc lộ những vẻ đẹp của nhân dân lao động, họ vẫn vui, vẫn không ngừng hy vọng về cuộc sống. Đây cũng chính là giá trị nhân đạo mà nhà văn muốn gửi gắm. Thêm vào đó, không thể phủ nhận rằng khi đọc nhan đề “Vợ nhặt” chung ta bắt gặp một điều gì đó rất lạ lùng, rất hút, cái tên nghe có vẻ lạ lùng này đã giúp cho độc giả tò mò và nhất định phải đọc, tìm hiểu câu chuyện này.

“Vợ nhặt” là điều trái khoáy, oái ăm, bất thường, vô lí. Song thực ra nó lại rất có lí. Vì đúng là anh Tràng đã nhặt được vợ thật. Chỉ một vài câu bông đùa của Tràng mà có người đã theo về làm vợ. Điều này đã thực sự khiến một việc nghiêm túc, thiêng liêng trở thành trò đùa và ngược lại, điều tưởng như đùa ấy lại chính là sự thực. Từ đây, bản thân nhan đề tự nó đã gợi ra cảnh ngộ éo le, sự rẻ rúng của giá trị con người. Chuyện Tràng nhặt được vợ đã nói lên tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.

Cảm nhận truyện ngắn “Vợ nhặt”

Kim Lân là nhà văn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Tuy ông sáng tác không nhiều nhưng có nhiều tác phẩm xuất sắc. Kim Lân có sở trường về truyện ngắn và am hiểu sâu sắc về đời sống nông thôn. Ông viết về cuộc sống, con người nông thôn bằng tình cảm và tâm hồn của người gắn bó mật thiết với nông thôn. “Vợ nhặt” là tác phẩm xuất sắc của Kim Lân và của nền văn học Việt Nam thế kỷ 20.

Tác phẩm “Vợ nhặt” lấy bối cảnh nước ta những năm đầu 1940, khi phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương. Nhân dân ta lâm vào tình thế một cổ hai tròng. Ở miền Bắc, phát xít Nhật bắt nhân dân nhổ lúa trồng đay. Trong khi đó, thực dân Pháp tăng thuế và ra sức vơ vét, bóc lột. Đầu năm 1945, nhân dân ta lâm vào nạn đói chưa từng thấy. Từ Lạng Sơn đến Quảng Trị hơn hai triệu người chết đói thê thảm. Nỗi đau này làm xúc động mãnh liệt lòng người. Tác phẩm được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, nạn đói đầu năm 1945 vẫn còn ảnh hưởng nặng nề đến các tầng lớp nghèo trong xã hội.

Tác phẩm xoay quanh câu chuyện lấy vợ của nhân vật Tràng. Tràng là thanh niên chưa vợ, sống ở xóm ngụ cư. Trong lúc cái đói đang hoành hành khắp nơi, Tràng dắt về nhà một người phụ nữ làm mọi người ngạc nhiên và làm thay đổi bộ mặt của xóm. Người đàn bà về làm vợ Tràng từ một lời đùa giỡn, chị cũng rất nghèo đói rách rưới.

Mẹ Tràng hết sức bất ngờ, nhưng vẫn chấp nhận dâu mới. Bà mừng cho con nhưng lại buồn tủi vì nghèo nên không có nổi mâm cơm ra mắt cho con. Có nàng dâu mới, gia đình Tràng ấm cúng hẳn. Tràng cũng ý thức được trách nhiệm của mình với gia đình; nhưng cái đói đã thể hiện trong bữa ăn đầu tiên đón nàng dâu mới với bữa ăn cháo cám.

Dù vậy, họ vẫn thấy đầm ấm, tràn đầy niềm tin và hạnh phúc. Bà cụ Tứ luôn khuyên con những lời khuyên chí tình và luôn tin tưởng vào tương lai tươi sáng. Qua thông tin cúa vợ, Tràng mới biết Việt Minh phá kho thóc Nhật để chia thóc cho người đói. Tràng thấy ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ và trong óc Tràng, hình ảnh lá cờ đỏ bay phất phới.

Thông qua câu chuyện cảm động của gia đình Tràng, truyện ca ngợi những người lương thiện trong tai họa đói kém khủng khiếp do thực dân Phát xít gây ra vẫn cưu mang đùm bọc nhau, vẫn khao khát mái ấm gia đình, tin tưởng vào tương lai và hi vọng vào sức mạnh giải phóng của Cách mạng.

Nhan đề “Vợ nhặt” đã gợi cho người đọc cảm động về cành đời, số phận của người lao động nghèo trước Cách mạng tháng Tám có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. “Nhặt” là lượm được, nhặt được vu vơ. Xưa nay người ta nhặt đồ vật, nhặt một cái gì đó chứ chưa ai từng “nhặt vợ”. Chi tiết ấy nói lên hoàn cảnh, số phận của người nghèo đói, đồng thời thể hiện tinh thần nhân đạo đáng quý của người lao động: họ sẵn sàng cưu mang, quan tâm, chăm sóc nhau dù trong hoàn cảnh nghiệt ngã nhất.

Truyện cũng khắc họa thành công thảm họa của dân tộc do thực dân phát xít gây ra. Nạn đói khủng khiếp đưa con người đến tình cảnh khốn cùng (cảnh người chết đói và những khuôn mặt u tối của người dân xóm ngụ cư). Do đó, giá trị của con người cũng rẻ mạt. Họ không hơn một vật tầm thường nhặt được. Tác phẩm lên án xã hội thực dân nửa phong kiên tàn bạo đã đây nhân dân ta vào nạn đói khủng khiếp năm 1945.

Qua tình cảm và hành động của Tràng với cô vợ, bà cụ Tứ với hai con và của cô vợ với gia đình Tràng, tác phẩm ca ngợi tình người thắm thiết. Họ luôn sẵn lòng cưu mang, nương tựa, quan tâm chăm sóc nhau trong cảnh khốn cùng. Trong nghịch cảnh, sống chét chưa biết thế nào, họ chấp nhận bên nhau. Họ đều tìm được hạnh phúc cho mình. Nghịch cảnh có thể khốc liệt và khó khăn còn tiếp tục kéo dài, thế nhưng, trong trái tim của họ luôn nồng cháy khao khát tình yêu thương, mái ấm gia đình, hạnh phúc. Chưa bao giờ họ thôi tin tưởng vào cuộc sống. Họ hi vọng vào tương lai trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Nhà văn Kim Lân đã rất thành công khi xây dựng được mọt tình huống truyện gây cấn, độc đáo, giàu ý nghĩa, có tác dụng làm nôi bật giá trị tư tưởng của tác phẩm. Cách trần thuật cũng hết sức tự nhiên, hấp dẫn. Bố cục câu chuyện đơn giản nhưng chặt chẽ. Kim Lân cũng tỏ ra có thế mạnh khi vận dụng giọng văn mộc mạc, giản dị, ngôn ngữ gần khẩu ngữ của người bình dân nhưng đã có sự chọn lọc kĩ càng. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật chân thật, sinh động, sắc sảo, đi vào chiều sâu nội tâm với những vận động đa diện, phức tạp.

“Vợ nhặt” đã gợi cho người đọc cảm động về cành đời, số phận của người lao động nghèo trước Cách mạng tháng Tám. Tác phẩm thể hiện sâu sắc tinh thần nhân đạo và cách nhìn đúng đắn của nhà văn đối với người lao động. Đồng thời, nhà văn cũng gợi ra được cách giải quyết tốt nhất cho số phận của người lao động: đi theo Cách mạng khi cơ hội đến.

Ý Nghĩa Nhan Đề Các Tác Phẩm Văn Học Lớp 9

Wap Hay, Wap Giải Trí, Wap Tai Game Miễn Phí

Tìm Gì Cũng Có…

– Tình đồng chí là cốt lõi, là bản chất sâu xa của sự gắn bó giữa những người lính cách mạng; là nốt nhấn và là lời khẳng định về tình đồng chí. (trong bài thơ tác giả đã tập trung làm nổi bật nội dung này.)

3. Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật)

– Nhan đề làm nổi bật một hình ảnh rất độc đáo của toàn bài và đó là hình ảnh hiếm gặp trong thơ – hình ảnh những chiếc xe không kính.

– Vẻ khác lạ còn ở hai chữ ” bài thơ” tưởng như rất thừa nhưng là sự khẳng định chất thơ của hiện thực, của tuổi trẻ hiên ngang, dũng cảm, vượt lên nhiều thiếu thốn, hiểm nguy của chiến tranh.

4. Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải)

-Tên bài thơ là một sáng tạo độc đáo, một phát hiện mới mẻ của nhà thơ.

– Hình ảnh mùa xuân nho nhỏ là biếu tương cho những gì tinh túy nhất, đẹp đẽ nhất của sự sống và của cuộc đời mỗi con người.

– Thể hiện nguyện ước của nhà thơ muốn làm một mùa xuân,nghĩa là sống đẹp, sống với tất cả sức sống tươi trẻ của mình nhưng rất khiêm nhường là một mùa xuân nhỏ góp vào mùa xuân lớn của đất nước của cuộc đời.

– Thể hiện quan điểm về sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung, giữa cá nhân và cộng đồng.

5. Làng (Kim Lân)

– Đặt tên “Làng” mà không phải là “Làng chợ Dầu” vì nếu thế thì vấn đề tác giả đề cập tới chỉ nằm trong phạm vi nhỏ hẹp của một làng cụ thể.

– Đặt tên là “Làng” vì truyện đã khai thac một tình cảm bao trùm, phổ biến trong con người thời kì kháng chiến chống Pháp: tình cảm với quê hương ,với đất nước.

– Làng ở đây cũng chính là cái Chợ Dầu mà ông Hai yêu như máu thịt của mình, nơi ấy với ông là niềm tin, là tình yêu và niềm tự hào vô bờ bến là quê hương đất nước thu nhỏ.

– Chủ đề của tác phẩm là viết về lòng yêu nước của người nông dân – làng nơi gần gũi, gắn bó với người nông dân, người ta không thể yêu nước nếu không yêu làng.

– Nhan đề Làng gợi hình ảnh người nông dân và nông thôn, đây là mảng sáng tác thành công nhất của Kim Lân.

Vì vậy, nhan đề tác phẩm rất hay và giàu ý nghĩa.

6. Lặng lẽ Sa Pa (Nguyễn Thành Long)

– Lặng lẽ Sa Pa, đó chỉ là cái vẻ lặng lẽ bên ngoài của một nơi ít người đến, nhưng thực ra nó lại không lặng lẽ chút nào, bởi đằng sau cái vẻ lặng lẽ của Sa Pa là cuộc sống sôi nổi của những con người đầy trách nhiệm đối với công việc, đối với đất nước, với mọi người mà tiêu biểu là anh thanh niên làm công tác khí tượng một mình trên đỉnh núi cao

– Tạo ra sự đối lập nhan đề tác phẩm tác giả muốn làm nổi bật nội dung, ý nghĩa mà tác giả muốn gửi gắm.

7. Ánh Trăng (Nguyễn Duy)

– Ánh trăng chỉ một thứ ánh sáng dịu hiền, ánh sáng ấy có thể len lỏi vào những nơi khuất lấp trong tâm hồn con người để thức tỉnh họ nhận ra những điều sai trái, hướng con người ta đến với những giá trị đích thực của cuộc sống.

8 . Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ (Nguyễn Khoa Điềm)

– Những em bé chứ không phải một em bé nhằm mang tính khái quát. Chỉ một thế hệ những con người lớn lên được nuôi dưỡng từ trên lưng mẹ. Người mẹ Tà Ôi trong tác phẩm cũng là đại diện cho các bà mẹ Việt Nam có tình yêu con gắn liền với tình yêu đất nước.

9. Bến Quê (Nguyễn MInh Châu)

– Bến: tức là chỗ đỗ, chỗ đậu

– Quê hương (gia đình, vợ con)và những gì thân thương nhất chính bến đỗ của cuộc đời.

– Câu chuyện thức tỉnh mỗi chúng ta phải biết trân trọng, nâng niu những vẻ đẹp bình dị, gần gũi của gia đình, quê hương.

10. Những ngôi sao xa xôi (Lê Minh Khuê)

– Hình ảnh ngôi sao thường biểu tượng cho cái đẹp, sự trong sáng, biểu tượng cho tương lai rực rỡ.

– Những ngôi sao trong truyện chính là những cô gái, biểu tượng cho vẻ đẹp anh hùng của những cô thanh niên Trường Sơn.

– Ở họ luôn có những phẩm chất tốt đẹp, sức tỏa sáng kì diệu nhưng không rực rỡ chói chang.

Ánh sáng ấy không phô trương mà phải chịu khó tìm hiểu chúng ta mới cảm nhận được vẻ đẹp kì diệu. Các chị xứng đáng là “những ngôi sao xa xôi” trên đỉnh Trường Sơn, những ngôi sao dẫn đường cho dân tộc Việt Nam đi tới thắng lợi. .

11. Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng)

– Vì chiếc lược ngà là kỷ vật cuối cùng ông Sáu dành cho con.

12. Ý nghĩa nhan đề truyện ngắn “Lặng lẽ Sa pa”:

Tác giả đặt tên truyện là “Lặng lẽ Sa pa” vì Sa pa là nơi có khí hậu mát mẻ, trong lành, nơi có không gian tĩnh mịch, yên ắng, thơ mộng- nơi nghỉ mát nổi tiếng, lí tưởng. Thế nhưng, bên trong cái vỏ yên tĩnh, lặng lẽ ấy là cả một cuộc sống sôi động của những con người đầy trách nhiệm, tâm huyết đối với công việc, đối với đất nước.

Họ là những nhà khoa học không có tên. Tên của họ gắn liền với công việc. Đó là anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu trên đỉnh Yên Sơn với cách sống, cách nghĩ cao đẹp, đáng khâm phục, đáng yêu. Đó là ông kỹ sư vườn rau Sa pa ngày này qua ngày khác ngồi cặm cụi miệt mài ngoài vườn, chăm chú rình xem cách con ong lấy phấn, thụ phấn cho hoa su hào, để rồi nghĩ ra cách thụ phấn cho hàng vạn cây su hào, lai tạo và cho ra giống su hào to hơn, ngọt hơn, tốt hơn phục vụ cho nhân dân toàn miền Bắc. Đó là anh cán bộ chuyên nghiên cứu sét ở trung tâm đã 11 năm không một ngày xa cơ quan, lúc nào cũng luôn trong tư thế sẵn sàng chờ sét, để lập bản đồ tìm ra nguồn tài nguyên trong lòng đất. Những con người ấy, họ đã làm việc thầm lặng, cống hiến sức lực của mình để xây dựng đất nước.

13. Ý nghĩa nhan đề bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”

– Nhiều nhà thơ đã viết về mùa xuân với những sắc thái khác khau: Mùa xuân chín (Hàn Mặc Tử); Mùa xuân xanh (Nguyễn Bính); Xuân ý, Xuân lòng (Tố Hữu)… Trong bài thơ này, ý nguyễn của tác giả là muốn làm một mùa xuân nhưng là một mùa xuân nho nhỏ – với khát khao được đóng góp chút công sức nhỏ bé của mình làm đẹp thêm mùa xuân của đất nước.

– Nhan đề của bài thơ là một sáng tạo độc đáo của Thanh Hải: “Mùa xuân nho nhỏ” là một cách nói hình tượng. Mùa xuân là cái trừu tượng, không hình hài cụ thể được diễn đạt một cách thực tế gắn với tính từ nho nhỏ, một từ láy có tính gợi tình.

– Nhan đề đó đắc biệt ở chỗ: mùa xuân là một khái niệm trừu tượng, chỉ mùa xuân nhưng lại được đặt cạnh nho nhỏ là một tính từ, nên mùa xuân trở nên hiện hữu, có hình khối. Tên bài thơ gợi hấp dẫn.

– Hình ảnh mùa xuân nho nhỏ là biểu tượng cho những gì tinh túy nhất, đẹp đẽ nhất của sự sống và cuộc đời mỗi con người.

– Thể hiện nguyện ước của nhà thơ muốn làm một mùa xuân, nghĩa là sống đẹp, sống với tất cả sức sống tươi trẻ của mình nhưng rất khiêm nhường, là một mùa xuân nho nhỏ góp vào mùa xuân của đất nước của cuộc đời.

– Thể hiện quan điểm về sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung, giữa cá nhân và cộng đồng. .

14. Ý nghĩa nhan đề truyện ngắn “Bến quê”:

“Bến quê” là những gì gần gũi, thân thương nhất với Nhĩ. Đó là những cành hoa bằng lăng đậm sắc với những cánh hoa màu tím thẫm; là cái bờ đất lở dốc đứng, có chuyến đò ngang chạy qua mỗi ngày; là cái bãi bồi màu mỡ, tươi tốt nằm phơi mình bên kia sông Hồng; là người vợ hiền thục, đảm đang, ân nghĩa, thủy chung sẵn sàng chịu đựng, hy sinh, dành tất cả tình cảm yêu thương, chăm chút cho anh trong những ngày tháng cuối đời; là bầy trẻ với những ngón tay “chua lòm mùi nước dưa”; là ông lão láng giềng sẵn sàng giúp đỡ, hỏi han, động viên anh mỗi ngày… Tất cả là những gì giàu có, đẹp đẽ, thuần phác, cổ sơ nhất của mảnh đất quê hương xứ sở- nơi đã sinh thành ra anh và sẽ đón nhận anh về khi anh nhắm mắt xuôi tay. Đó còn là mái ấm gia đình- điểm tựa để anh cất cánh bay cao đồng thời cũng là nơi nương tựa vững chắc, bình yên của anh trong những ngày tháng cuối đời. Đó là nơi neo đậu bình yên nhất của cuộc đời mỗi con người.

Nhan đề “Bến quê” có ý nghĩa thức tỉnh mọi người sự trân trọng những vẻ đẹp và giá trị bình dị, gần gũi mà đích thực của cuộc sống, của quê hương. Đó cũng là thông điệp mà nhà văn muốn gửi gắm đến bạn đọc được cô đúc qua nhan đề của tác phẩm.

15. Ý nghĩa nhan đề truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi”:

“Những ngôi sao xa xôi” là hình ảnh ẩn dụ về ba cô thanh niên xung phong (Nho, chị Thao, Phương Định) trong tổ Trinh sát mặt đường, trên một cao điểm ác liệt thuộc tuyến đường Trường Sơn,

Họ là những hình ảnh tiêu biểu cho thế hệ nữ thanh niên xung phong thời chống Mĩ. Ở họ có những phẩm chất tốt đẹp và sức tỏa sáng kì diệu. Đó là thứ ánh sáng lấp lánh, thoắt ẩn thoắt hiện xa xôi, mà lại có sức mê hoặc lòng người. Các chị quả thật xứng đáng là những ngôi sao sáng lấp lánh trên đỉnh Trường Sơn. Tuy xa xôi mà gần gũi trong lòng yêu thương cảm phục của mọi người, mọi thời đại.

16. Ý nghĩa nhan đề bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”:

Nhan đề bài thơ khá dài, ta tưởng chừng như có chỗ thừa. Nhưng chính nhan đề ấy lại thu hút người đọc ở cái vẻ khác lạ, độc đáo của nó. Nhan đề của bài thơ làm nối bật hình ảnh toàn bài: những chiếc xe không kính. Hình ảnh này là một phát hiện thú vị của tác giả, thể hiện sự gắn bó, am hiểu hiện thực của nhà thơ về đời sống chiến tranh trên tuyến đường Trường Sơn. Đồng thời, nhà thơ lại thêm vào nhan đề hai chữ “bài thơ” cho ta thấy rõ hơn cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác giả, không phải chỉ viết về những chiếc xe không kính hay là hiện thực khốc liệt của chiến tranh mà chủ yếu là Phạm Tiến Duật muốn khẳng định chất thơ toát lên từ hiện thực trần trụi ấy.

Đó là chất thơ của tuổi trẻ hiên ngang, bất khuất, trẻ trung, vượt trên mọi thiếu thốn, gian khổ, hiểm nguy của chiến tranh.

Nguồn: http://langsao.vn/ (sưu tầm)

Ý Nghĩa Nhan Đề “Chiếc Thuyền Ngoài Xa” Của Nguyễn Minh Châu

Ý nghĩa nhan đề “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu

“Chiếc thuyền ngoài xa” xuất hiện trong truyện ngắn trước hết hướng người đọc tới hình ảnh tuyệt đẹp đó là con thuyền thu lưới trong biển sớm mù sương, nó toàn bích như một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Vẻ đẹp ấy khiến cho người nghệ sỹ bối rối, xúc động, cảm thấy khám phá được chân lý của cái hoàn thiện. Nhưng khi chiếc thuyền tới gần, phía sau vẻ đẹp toàn bích ấy là bao cảnh đời trái ngang, đau khổ, phũ phàng.

“Chiếc thuyền ngoài xa” là một ẩn dụ về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật. Đó là chiếc thuyền có thật trong cuộc đời, là không gian sinh sống của gia đình người hàng chài. Cuộc sống gia đình; đông con, khó kiếm ăn, cuộc sống túng quẫn là nguyên nhân làm cho người chồng trở nên cục cằn, thô lỗ và biến vợ thành đối tượng của những trận đòn. Những cảnh tượng đó, những thân phận đó nếu nhìn từ xa, ở ngoài xa thì sẽ không thấy được.

Vì ngoài xa nên con thuyền mới cô đơn. Đó là sự đơn độc của con thuyền nghệ thuật trên đại dương cuộc sống, đơn độc của con người trong cuộc đời. Chính sự thiếu gần gũi, sẻ chia ấy là nguyên nhân của sự bế tắc và lầm lạc. Phùng đã chụp được chiếc thuyền ngoài xa trong sương sớm- một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích, một chân lí của sự toàn thiện. Chiếc thuyền là biểu tượng của sự toàn mỹ mà chiêm nghiệm nó, anh thấy tâm hồn mình trong ngần. Nhưng khi chiếc thuyền đâm thẳng vào bờ, chứng kiến cảnh đánh đập vợ của người đàn ông kia, anh đã kinh ngạc… và vứt chiếc máy ảnh xuống đất. Anh nhận ra rằng, cái đệp ở ngoài xa kia cũng ẩn chứa nhiều oái oăm, ngang trái và nghịch lí. Nếu không đến gần thì chẳng bao giờ anh nhận ra. Xa và gần, bên ngoài và sâu thẳm…đó cũng là cách nhìn, cách tiếp cận của nghệ thuật chân chính.

Vậy là qua mâu thuẫn giữa cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh với hiện thực phũ phàng của cuộc sống, nhà văn mang đến cho người đọc một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống; con người phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều, tránh cái nhìn giản đơn, sơ lược, phải hiện ra bản chất thực sự sau bề ngoài của sự vật, hiện tượng.

Nhan đề “Chiếc thuyền ngoài xa” là một khái quát giản dị về mối quan hệ giữa nghệ thuật với đời sống: Nghệ thuật đích thực phải luôn gắn bó khăng khít với hiện thực cuộc sống, người nghệ sỹ phải có bản lĩnh trung thực để khám phá những hiện thực dẫu là sự tàn nhẫn của cuộc sống con người. Nguyễn Minh Châu đã từng khẳng định: “Nhà văn không có quyền nhìn sự việc một cách đơn giản mà nhà văn cần phấn đấu đề đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”

Nhan đề tác phẩm đưa đến một quan niệm: người nghệ sĩ phải có cảm hứng, sẻ chia, thấu hiểu, thường mực về số phận, hạnh phúc của con người thì tác phẩm nghệ thuật mới đạt được giá trị nghệ thuật cao nhất.

Cảm nhận ý nghĩa truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”

“Trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, dù có là tiểu thuyết hay truyện ngắn, cốt truyện thường không đóng một vai trò nào đáng kể. Nhà văn tập trung chú ý vào thân phận con người, tính cách nhân vật và đã huy động vào đấy tâm hồn đa cảm dồi dào ấn tượng tươi mới và xúc động về cuộc sống, bút pháp chân thực và một giọng văn trữ tình trầm lắng ấp áp” (Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Minh Châu những năm 80 và sự đổi mới cách nhìn về con người, T.C Văn học, 1993, số 3, tr.20). Có thể nói Chiếc thuyền ngoài xa là một biểu hiện của xu hướng tìm tòi khám phá trong văn của Nguyễn Minh Châu, trở về với đời thường, với mảnh đất miền Trung cằn cỗi và cơ cực, đau đáu đi tìm câu hỏi cho những phận người trong cuộc sống đời thường trăm đắng ngàn cay. Trên tinh thần quyết liệt đổi mới, Nguyễn Minh Châu đã lấy con người làm đối tượng phản ánh thay cho hiện thực đời sống. Mặc dù không phủ nhận văn chương gắn với cái chung, với cộng đồng nhưng Nguyễn Minh Châu còn muốn thể hiện một quan niệm văn chương trước hết phải là câu chuyện của con người, với muôn mặt phức tạp phong phú với tất cả chiều sâu.

Hiện thực của tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa không phải là bức tranh hoành tráng của mảnh đất chiến trường xưa A So từng ghi dấu bao chiến công, cũng không phải là những con người tạc dáng đứng hào hùng của mình vào lịch sử. Nhân vật Phùng trở về với mảnh đất từng chiến đấu, một người lính năm xưa giờ là phóng viên ảnh trở về ghi lại những vẻ đẹp cuộc sống đời thường cho bộ ảnh lịch quê hương đất nước, phản ánh cuộc sống lao động khoẻ khoắn tươi rói của những con người dựng xây đất nước, đi tìm vẻ đẹp bí ẩn của màn sương buổi sáng bổ sung cho tấm ảnh lịch hoàn chỉnh.

Thế nhưng, những gì anh chứng kiến đã khiến anh và những người bạn của mình nhận ra một sự thật gắn với cuộc sống của những người dân chài lam lũ: “Cuộc sống cứ lênh đênh khắp cả một vùng phá mênh mông. Cưới xin, sinh con đẻ cái, hoặc lúc nhắm mắt cũng chỉ trên một chiếc thuyền. Xóm giềng không có. Quê hương bản quán cả chục cây số trời nước chứ không cố kết vào một khoảnh đất nào”. Từ cuộc sống ấy, những bi kịch tiềm ẩn khiến con người phải ngỡ ngàng. Một câu chuyện đơn giản nhưng đã chứa đựng những phát hiện mới mẻ hàm chứa quan niệm văn chương hướng về con người của Nguyễn Minh Châu. Nếu chỉ nghĩ suy một cách xuôi chiều đơn giản, cuộc sống khi có ánh sáng cách mạng sẽ đổi đời cho số phận người lao động, sẽ xoá tan những bi kịch đè nặng lên kiếp người. Thế nhưng Nguyễn Minh Châu đã chỉ rõ cho chúng ta : cách mạng không phải giải quyết bi kịch trong một sớm một chiều, con người vẫn phải đối diện với những bi kịch đời mình, dung hoà với nó. Cách lý giải về con người của Nguyễn Minh Châu còn ẩn chứa những suy ngẫm về số phận dân tộc phải trải qua những khổ đau để đối diện với hiện thực bao thách thức.

Người nghệ sĩ nhiếp ảnh đi tìm những vẻ đẹp đích thực của cuộc sống, ngỡ như anh đã phát hiện ra một khung cảnh thật đáng yêu đáng ca tụng, hướng người xem về cái đẹp có thể làm quên đi những phiền não cuộc sống: “Qua khuôn hình ánh sáng, tôi đã hình dung thấy trước những tấm ảnh nghệ thuật của tôi sẽ là vài ba chiếc mũi thuyền và một cảnh đan chéo của những tấm lưới đọng đầy những giọt nước, mỗi mắt lưới sẽ là một nốt nhạc trong bản hòa tấu ánh sáng và bóng tối, tượng trưng cho khung cảnh bình minh là một khoảng sáng rực rỡ đến mức chói mắt, trong khoảng sáng đó sẽ hiện lên trong tầm nhìn thật xa những đường nét của thân hình một người đàn bà đang cúi lom khom, sải cánh tay thật dài về phía trước kéo tấm lưới lên khỏi mặt nước, và phía sau lưng người đàn bà, hình một ngư phủ và một đứa trẻ đứng thẳng trên đầu mũi thuyền, dùng lực toàn thân làm đòn bẩy nâng bổng hai chiếc gọng lưới chĩa thẳng lên trời.” . Và những người dân vùng biển ấy hiện lên thật đáng yêu, đáng ca ngợi: cuộc sống lao động đầm ấm khoẻ khoắn, những con người gặp gỡ thật đáng yêu…

Tất cả những ấn tượng ấy sẽ không bị phá vỡ nếu như không có sự xuất hiện của chiếc – thuyền – ngoài – xa. Người đàn ông xuất hiện cùng với người đàn bà trong khung cảnh nên thơ đã nhanh chóng phá vỡ đi cảm giác thăng hoa nghệ thuật bằng trận đòn dây lưng quật thẳng tay vào người vợ không thương xót. Có lẽ khó ai hình dung cảnh tượng ấy lại diễn ra trong bối cảnh cuộc sống mới, nó hoàn toàn đối lập với điều chúng ta hằng xây dựng cho cuộc sống này “người yêu người, sống để yêu nhau” (Tố Hữu).

Điều bất công diễn ra nhức nhối trước mắt người lính từng chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng đất nước, giải phóng con người đã làm nên một cơn giận bùng phát. Bản thân anh nghĩ về người đàn ông kia như “gã đàn ông “độc ác và tàn nhẫn nhất thế gian”, còn người phụ nữ xấu xí mặt rỗ kia đích thị là nạn nhân đáng thương nhất của nạn bạo hành trong gia đình. Hành động tấn công gã đàn ông khiến cho anh ngộ nhận mình là anh hùng: “Tôi nện hắn bằng tay không, nhưng cú nào ra cú ấy, không phải bằng bàn tay một anh thợ chụp ảnh mà bằng bàn tay rắn sắt của một người lính giải phóng đã từng mười năm cầm súng. Tôi đã chiến đấu trong mấy ngày cuối cùng chiến tranh trên mảnh đất này. Bất luận trong hoàn cảnh nào tôi cũng không cho phép hắn đánh một người đàn bà, cho dù đó là vợ và tự nguyện rúc vào trong xó bãi xe tăng kín đáo cho hắn đánh”. Nhưng phản ứng của người đàn bà trước ông chánh án đã khiến anh choáng váng: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó…”.

Hoá ra, người cần được thông cảm lại là những quan toà cách mạng có lòng tốt nhưng “các chú đâu có phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”. Người đàn bà khốn khổ ấy đã không chối bỏ người đàn ông đích thực của mình, dù trong lòng đau đớn khi hàng ngày phải chịu những trận đòn, phải chứng kiến cảnh hai cha con đối xử với nhau như kẻ thù, phải chấp nhận cuộc sống đương đầu nơi gió bão.Có người đã nhận định: Chiếc thuyền ngoài xa là hình tượng có ý nghĩa biểu tượng, như vẻ đẹp của một bức tranh toàn bích, nhưng đàng sau hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp là cuộc sống đầy khắc nghiệt, dữ dội và những số phận con người vật vã trong cuộc mưu sinh.

Hoá ra hành trình tìm kiếm hạnh phúc không hề đơn giản : người đàn ông kia dù cục súc nhưng trên chiếc thuyền phải có lúc có đàn ông, hạnh phúc đơn giản khi cả nhà quây quần trong bữa ăn trên chiếc thuyền khiến người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng tất cả. Hành trình của gia đình kỳ lạ kia vẫn tiềm ẩn những nguy cơ: đứa con yêu mẹ sẵn sàng đánh nhau với bố, thủ dao găm tìm dịp trả thù, những trận đòn tàn khốc có thể làm cho người đàn bà kia gục ngã bất cứ lúc nào…

Thế nhưng trong cuộc sống nghèo khổ, chật vật và ngày ngày phải nuôi đủ cho mười miệng ăn trên chiếc thuyền ọp ẹp, người đàn bà ấy là hiện thân của một sự hy sinh vô bờ bến.Tình yêu chồng con được nhìn nhận từ cuộc đời trăm đắng ngàn cay có vẻ đẹp riêng khiến cho “một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển”. Sự vỡ lẽ ấy chính là sự phá vỡ những quan niệm giản đơn về tình yêu, hạnh phúc, về lòng nhân ái, sự khoan chúng tôi giá trị nhân bản sâu sắc. Những kết hợp ấy trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đem đến cái nhìn đa diện về số phận con người.

Nếu như trước kia, trong văn học 1945 – 1975, khi đề cập đến số phận con người thì bao giờ các nhà văn cũng đề cao vào khả năng con người vượt qua nghịch cảnh và những tác động của môi trường, của xã hội mới sẽ giúp con người tìm thấy hạnh phúc. Khi diễn tả sự vận động của tính cách con người, các nhà văn cũng thường nói về sự vận động theo chiều hướng tích cực, từng bước vượt lên hoàn cảnh, hồi sinh tâm hồn. Cách minh họa tư tưởng ấy không tránh khỏi có phần giản đơn và phiến diện.

Nguyễn minh Châu đã không đi theo con đường mòn đó. Trong Chiếc thuyền ngoài xa, nhà văn đã nói về những nghịch lý tồn tại như một sự thật hiển nhiên trong đời sống con người. Bằng thái độ cảm thông và sự hiểu biết sâu sắc về con người, ông đã cung cấp cho ta cái nhìn toàn diện về cái đẹp cuộc sống, hiểu cả bề mặt lẫn chiều sâu. Nguyễn Minh Châu đã từng phát biểu: “Văn học và đời sống là những vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người” (Phỏng vấn đầu xuân 1986 của báo Văn nghệ), “Nhà văn tồn tại ở trên đời có lẽ trước hết là vì thế: để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn con người ta đến chân tường, những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đoạ đầy đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người vhà cuộc đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực” (Ngồi buồn viết mà chơi).

Tư tưởng ấy được thể hiện trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa như một minh chứng cho tấm lòng hướng về con người, khả năng giải mã những mặt phức tạp của cuộc đời. Bức thông điệp trong tác phẩm về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống là nhận thức thấm thía : “cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật, và rằng con người ta cần có một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời.”(Lê Ngọc Chương- Chiếc thuyền ngoài xa, một ẩn dụ nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu).

Kết thúc tác phẩm, người nghệ sĩ đã hoàn thành kiệt tác của mình đem đến cho công chúng những cảm nhận về vẻ đẹp tuyệt mỹ của tạo hoá, thế nhưng mấy ai biết được sự thật nằm sau vẻ đẹp tuyệt vời kia? Phần kết của tác phẩm để lại nhiều suy ngẫm: “Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông”.

Cuộc sống vốn vậy, vẫn đẹp tươi, vẫn êm ả, nhưng nếu không có tấm lòng để nhận ra những uẩn khúc số phận thì những vẻ đẹp như màu hồng hồng của ánh sương mai kia cũng trở nên vô nghĩa, người nghệ sĩ phải nhận ra sự thật ẩn khuất sau màn sương huyền ảo kia, phải tiếp cận sự thật để nhận ra ý nghĩa đích thực của cuộc sống và con người