Top 7 # Xem Nhiều Nhất Ý Nghĩa Lý Luận Và Ý Nghĩa Thực Tiễn Của Đề Tài Mới Nhất 6/2023 # Top Like | Shareheartbeat.com

Ý Nghĩa Lý Luận Và Thực Tiễn Của Đề Tài

Mối Quan Hệ Giữa Lý Luận Và Thực Tiễn ý Nghĩa Phương Pháp Luận Vận Dụng Ppl Trong Công Tác, ý Nghĩa Lý Luận Và Thực Tiễn Của Đề Tài, ý Nghĩa Lý Luận Và Thực Tiễn Là Gì, ý Nghĩa Lý Luận Và Thực Tiễn, ý Nghĩa Lý Luận Và Thực Tiễn Về Vật Chất, ý Nghĩa Lý Luận Và Thực Tiễn Của Đề Tài Ctxh Hỗ Trợ Tâm Lý Cho Trẻ Em Mồ Coi, ý Nghĩa Phương Pháp Luận Của Thực Tiễn, ý Nghĩa Mối Quan Hệ Giữa Lý Luận Và Thực Tiễn, ý Nghĩa Lý Luân Và Thực Tiễn Của Đề Tài Công Tác Văn Phong, ý Nghĩa Lý Luận Và Thực Tiễn Của Cương Lĩnh, Lý Luận Mà Không Có Thực Tiễn Là Lý Luận Suông Thực Tiễn Mà Không Có Lý Luận Là Thực Tiễn Mù Quáng, Lý Luận Không Có Thực Tiễn Là Lý Luận Suông Thực Tiễn Không Có Lý Luận Là Thực Tiễn Mù Quáng, ý Nghĩa Thực Tiễn Của Chủ Nghĩa Mác Lênin, Luật Nghĩa Vụ Và Bảo Đảm Thực Hiện Nghĩa Vụ-bản án Và Bình Luận Bản án, Tiền Đề Lý Luận Ra Đời Của Chủ Nghĩa Mác, Lý Luận Của Chủ Nghĩa Mác Về Tiền Tệ, Tiền Đề Lý Luận Ra Đời Chủ Nghĩa Mác, Định Nghĩa Nào Về Thực Tiễn, Định Nghĩa Nào Về Thực Tiễn Sau Đây Là Đầy Đủ Và Chính Xác Nhất, ý Nghĩa Thực Tiễn Quân Đội Trong Tình Hình Hiện Nay, Tiểu Luận Nguyên Tắc Thống Nhất Giữa Lý Luận Và Thực Tiễn, Tiểu Luận Sự Thống Nhất Giữa Lý Luận Và Thực Tiễn, Lý Luận Không Có Thực Tiễn Là Lý Luận Suông, Lý Luận Mà Không Có Thực Tiễn Là Lý Luận Suông, Lý Luận Mà Không Có Thực Tiễn Là Lý Luận Suông Là Câu Nói Của Ai, Lý Luận Và Thực Tiễn Là Gì, Lý Luận Và Thực Tiễn, Lý Luận Thực Tiễn, Lý Luận Đi Đôi Với Thực Tiễn, Lý Luận Thực Tiễn Là Gì, Lý Luận Gắn Với Thực Tiễn, Lý Luận Là Gì Thực Tiễn Là Gì, Từ Lý Luận Đến Thực Tiễn, Báo Cáo Tổng Kết Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn Qua 30 Năm Đổi Mới, Lý Luận Và Thực Tiễn Công Tác Lưu Trữ, Lý Luận Và Thực Tiễn Trong Dạy Học, Từ Lý Luận Đến Thực Tiễn Htv9, Báo Cáo Tổng Kết Một Số Vấn Đề Lý Luận Thực Tiễn Sau 30 Năm Đổi Mới, Lý Luận Phải Đi Đôi Với Thực Tiễn, Từ Lý Luận Đến Thực Tiễn Htv4, Báo Cáo Tổng Kết Một Số Vấn Đề Lý Luận – Thực Tiễn Qua 20 Năm Đổi Mới, Lý Luận Gắn Liền Với Thực Tiễn, Báo Cáo Tổng Kết Một Số Vấn Đề Lý Luận – Thực Tiễn Qua 30 Năm Đổi Mới, Chỉ Thị Của Ban Bí Thư Về Tổng Kết Một Số Chuyên Đề Lý Luận – Thực Tiễn Qua 20 Đổi Mới, Thủ Tục Hành Chính Lý Luận Và Thực Tiễn, Báo Cáo Tiến Độ Thực Hiện Luận Văn Thạc Sĩ, Lý Luận Và Thực Tiễn Trong Giáo Dục, Mối Quan Hệ Giữa Lý Luận Và Thực Tiễn, Mối Liên Hệ Giwuax Lý Luận Và Thực Tiễn, Lý Luận Và Thực Tiễn Trong Triết Học, Dự Thảo Báo Cáo Tổng Kết Một Số Vấn Đề Lý Luận – Thực Tiễn Qua 30 Năm Đổi Mới, Báo Cáo Tiến Độ Thực Hiện Luận Văn Của Học Viên, Lý Luận Và Thực Tiễn Trong Công Việc, Luận án Tiến Sĩ Công Nghệ Thực Phẩm, Diễn Biến Hòa Bình Lý Luận Và Thực Tiễn, Lý Luận Thực Tiễn Và Sự Vận Dụng Quan Điểm Đó Vào Quá Trình Đổi Mới ở Việt Nam, Quy Trình Ban Hành Luật, Pháp Lệnh Lý Luận Và Thực Tiễn, Hãy Phân Tích Thực Tiễn Và Vai Trò Của Thực Tiễn Đối Với Nhận Thức, Trên Cơ Sở Lý Luận Thực Tiễn Về Phát Huy Dân Chủ, Giữ Nghiêm Kỷ Luật, Phấn Đấu Xứng Danh Bộ Đội Cụ H, Trên Cơ Sở Lý Luận Thực Tiễn Về Phát Huy Dân Chủ, Giữ Nghiêm Kỷ Luật, Phấn Đấu Xứng Danh Bộ Đội Cụ H, Luận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Của Việt Nam Về ưu Đãi Đầu Tư Với Thực Tiễn ở Tỉnh Quảng Bình, Sự Vận Dụng Nguyên Tắc Thống Nhất Giữa Lý Luận Và Thực Tiễn Của Đcsvn Trong Thời Kì Đổi Mới., ý Nghĩa Phương Pháp Luận Của Phương Thức Sản Xuất, Báo Cáo Tham Luận Hội Nghị Điển Hình Tiên Tiến Ngành Giáo Dục, ý Nghĩa Phương Pháp Luận Của Định Nghĩa Vật Chất Của Lênin, Bài Tham Luận Điển Hình Tiên Tiến Công An Nhân Dân, Bài Tham Luận Gương Điển Hình Tiên Tiến Trong Công An Nhân Dân, Lý Luận Chủ Nghĩa Tư Bản Độc Quyền Và ý Nghĩa Trong Việc Hình Thành Cộng Đồng Asean, Bài Tham Luận Gương Điển Hình Tiên Tiến, Bài Tham Luận Hội Nghị Điển Hình Tiên Tiến, Bài Tham Luận Về Hội Nghị Điển Hình Tiên Tiến, Báo Cáo Tham Luận Tại Hội Nghị Điển Hình Tiên Tiến, Báo Cáo Tham Luận Cá Nhân Điển Hình Tiên Tiến, Báo Cáo Tham Luận Hội Nghị Điển Hình Tiên Tiến, Báo Cáo Tham Luận Gương Điển Hình Tiên Tiến, Báo Cáo Tham Luận Điển Hình Tiên Tiến Cá Nhân, Bài Tham Luận Tại Hội Nghị Điển Hình Tiên Tiến, Bài Tham Luận Về Gương Điển Hình Tiên Tiến, Mẫu Tham Luận Hội Nghị Điển Hình Tiên Tiến, Tham Luận Tại Hội Nghị Điển Hình Tiên Tiến, Tham Luận Gương Điển Hình Tiên Tiến, Bài Tham Luận Điển Hình Tiên Tiến Cá Nhân, Bài Tham Luận Báo Cáo Điển Hình Tiên Tiến, Báo Cáo Tham Luận Điển Hình Tiên Tiến 5 Năm, Bài Tham Luận Về Điển Hình Tiên Tiến, Báo Cáo Tham Luận Điển Hình Tiên Tiến Tập Thể, Mẫu Tham Luận Điển Hình Tiên Tiến, Tiểu Luận Xây Dựng Nền Văn Hóa Việt Nam Tiên Tiến Đậm Đà Bản Sắc Dân Tộc, Báo Cáo Tham Luận Điển Hình Tiên Tiến, Luật Nghĩa Vụ Dân Sự Và Bảo Đảm Thực Hiện Nghĩa Vụ Dân Sự, Tiểu Luận Về Các Kỹ Năng Lãnh Đạo Cần Thiết Của Cấp Phòng Và Thực Tiễn Lãnh Đạo Cấp Phòng ở Cơ Quan, Định Nghĩa Về Tiền, Định Nghĩa Tiền, ý Nghĩa Báo Cáo Lưu Chuyển Tiền Tệ, Định Nghĩa Rửa Tiền, ý Nghĩa Học Thuyết Tiến Hóa, Định Nghĩa ưu Tiên, 8 Định Nghĩa Về Tiền, ý Nghĩa Văn Bản Bài Học Đường Đời Đầu Tiên, Định Nghĩa Tiên Đề ơclit,

Mối Quan Hệ Giữa Lý Luận Và Thực Tiễn ý Nghĩa Phương Pháp Luận Vận Dụng Ppl Trong Công Tác, ý Nghĩa Lý Luận Và Thực Tiễn Của Đề Tài, ý Nghĩa Lý Luận Và Thực Tiễn Là Gì, ý Nghĩa Lý Luận Và Thực Tiễn, ý Nghĩa Lý Luận Và Thực Tiễn Về Vật Chất, ý Nghĩa Lý Luận Và Thực Tiễn Của Đề Tài Ctxh Hỗ Trợ Tâm Lý Cho Trẻ Em Mồ Coi, ý Nghĩa Phương Pháp Luận Của Thực Tiễn, ý Nghĩa Mối Quan Hệ Giữa Lý Luận Và Thực Tiễn, ý Nghĩa Lý Luân Và Thực Tiễn Của Đề Tài Công Tác Văn Phong, ý Nghĩa Lý Luận Và Thực Tiễn Của Cương Lĩnh, Lý Luận Mà Không Có Thực Tiễn Là Lý Luận Suông Thực Tiễn Mà Không Có Lý Luận Là Thực Tiễn Mù Quáng, Lý Luận Không Có Thực Tiễn Là Lý Luận Suông Thực Tiễn Không Có Lý Luận Là Thực Tiễn Mù Quáng, ý Nghĩa Thực Tiễn Của Chủ Nghĩa Mác Lênin, Luật Nghĩa Vụ Và Bảo Đảm Thực Hiện Nghĩa Vụ-bản án Và Bình Luận Bản án, Tiền Đề Lý Luận Ra Đời Của Chủ Nghĩa Mác, Lý Luận Của Chủ Nghĩa Mác Về Tiền Tệ, Tiền Đề Lý Luận Ra Đời Chủ Nghĩa Mác, Định Nghĩa Nào Về Thực Tiễn, Định Nghĩa Nào Về Thực Tiễn Sau Đây Là Đầy Đủ Và Chính Xác Nhất, ý Nghĩa Thực Tiễn Quân Đội Trong Tình Hình Hiện Nay, Tiểu Luận Nguyên Tắc Thống Nhất Giữa Lý Luận Và Thực Tiễn, Tiểu Luận Sự Thống Nhất Giữa Lý Luận Và Thực Tiễn, Lý Luận Không Có Thực Tiễn Là Lý Luận Suông, Lý Luận Mà Không Có Thực Tiễn Là Lý Luận Suông, Lý Luận Mà Không Có Thực Tiễn Là Lý Luận Suông Là Câu Nói Của Ai, Lý Luận Và Thực Tiễn Là Gì, Lý Luận Và Thực Tiễn, Lý Luận Thực Tiễn, Lý Luận Đi Đôi Với Thực Tiễn, Lý Luận Thực Tiễn Là Gì, Lý Luận Gắn Với Thực Tiễn, Lý Luận Là Gì Thực Tiễn Là Gì, Từ Lý Luận Đến Thực Tiễn, Báo Cáo Tổng Kết Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn Qua 30 Năm Đổi Mới, Lý Luận Và Thực Tiễn Công Tác Lưu Trữ, Lý Luận Và Thực Tiễn Trong Dạy Học, Từ Lý Luận Đến Thực Tiễn Htv9, Báo Cáo Tổng Kết Một Số Vấn Đề Lý Luận Thực Tiễn Sau 30 Năm Đổi Mới, Lý Luận Phải Đi Đôi Với Thực Tiễn, Từ Lý Luận Đến Thực Tiễn Htv4, Báo Cáo Tổng Kết Một Số Vấn Đề Lý Luận – Thực Tiễn Qua 20 Năm Đổi Mới, Lý Luận Gắn Liền Với Thực Tiễn, Báo Cáo Tổng Kết Một Số Vấn Đề Lý Luận – Thực Tiễn Qua 30 Năm Đổi Mới, Chỉ Thị Của Ban Bí Thư Về Tổng Kết Một Số Chuyên Đề Lý Luận – Thực Tiễn Qua 20 Đổi Mới, Thủ Tục Hành Chính Lý Luận Và Thực Tiễn, Báo Cáo Tiến Độ Thực Hiện Luận Văn Thạc Sĩ, Lý Luận Và Thực Tiễn Trong Giáo Dục, Mối Quan Hệ Giữa Lý Luận Và Thực Tiễn, Mối Liên Hệ Giwuax Lý Luận Và Thực Tiễn, Lý Luận Và Thực Tiễn Trong Triết Học,

Mối Quan Hệ Biện Chứng Giữa Lý Luận Và Thực Tiễn, Ý Nghĩa Phương Pháp Luận Của Vấn Đề Này, Sự Vận Dụng Của Đảng Ta

Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn. Ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề này. Sự vận dụng của Đảng ta. Đáp án Sự gắn kết giữa nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn luôn là một đòi hỏi cấp bách và là một phương thức để mang đến thành công cho hoạt động của mỗi cá nhân, của tổ chức và của một chính đảng. Nhận thức đúng và giải quyết hợp lý mối quan hệ biện chứng tác động qua lại của lý luận và thực tiễn, dùng lý luận làm kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn, tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận, thực tiễn phải là cơ sở, động lực của nhận thức và tiêu chuẩn của chân lý … luôn là chìa khóa để để giải quyết mọi vướng mắc trên con đường đi đến mục tiêu đã định. Ngược lại, nhận thức không đúng và giải quyết không tốt mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa giáo điều, kinh viện và chủ nghĩa kinh nghiệm hoặc chủ quan duy ý chí, tất nhiên sẽ dẫn đến những thất bại mà đối với một chính đảng, sự thất bại đó có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Trước hết, ta đi vào các khái niệm cơ bản: 1- Thực tiễn là gì? Thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản không chỉ của lý luận nhận thức mácxít mà còn của toàn bộ triết học Mác – Lênin nói chung. * Quan điểm của triết học trước Mác: – Điđơrô (nhà triết học Pháp): hiểu chưa đầy đủ về thực tiễn, cho rằng thực tiễn là hoạt động thực nghiệm khoa học trong phòng thí nghiệm. – Phoiơbắc (nhà triết học duy vật siêu hình người Đức): thực tiễn chỉ là những hoạt động bẩn thỉu của các con buôn. – Hêghen (nhà triết học duy tâm khách quan người Đức): thực tiễn chỉ là khái niệm, tư tưởng thực tiễn chứ không phải bản thân thực tiễn với tư cách là hoạt động vật chất. * Quan điểm triết học mácxít: Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử – xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Hoạt động thực tiễn không phải bao gồm toàn bộ hoạt động vật chất của con người mà chỉ là những hoạt động vật chất (để phân biệt với hoạt động tinh thần, hoạt động lý luận), hay nói theo thuật ngữ của Mác là hoạt động vật chất “cảm tính” của con người. Hoạt động thực tiễn là hoạt động đặc trưng và bản chất của con người, được thực hiện một cách tất yếu khách quan và được tiến hành trong các quan hệ xã hội, là hoạt động mang tính năng động, sáng tạo, là phương thức tồn tại cơ bản của con người và xa hội loài người. Hoạt động thực tiễn có ba dạng cơ bản, đó là: + Hoạt động sản xuất vật chất: là hình thức hoạt động cơ bản đầu tiên của thực tiễn, có vai trò quyết định đối với các dạng hoạt động khác của thực tiễn. Vì: nó là hoạt động nguyên thủy nhất và tồn tại một cách khách quan, thường xuyên nhất trong đời sống con người và nó tạo ra những điều kiện, của cải thiết yếu có tính quyết định đến sự sinh tồn và phát triển của con người và xã hội loài người. + Hoạt động chính trị – xã hội: là hoạt động của các cộng đồng người khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những mối quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển. + Hoạt động thực nghiệm khoa học: là một hình thức đặc biệt của thực tiễn, được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra gần giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định các qui luật biến đổi và phát triển của đối tượng nghiên cứu. 2- Lý luận là gì? Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, lý luận là sự tổng kết kinh nghiệm của loài người, là sự tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử. Xét về bản chất: lý luận là một hệ thống tri thức chặt chẽ mang tính trừu tượng khái quát, đúc kết từ thực tiễn, được diễn đạt thông qua các khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật … phản ánh bản chất của sự vận động, biến đổi, phát triển của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Lý luận là sản phẩm của sự phát triển cao của nhận thức, được hình thành trong mối quan hệ với thực tiễn. 3 – Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn: Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ với nhau, tác động qua lại nhau, trong đó thực tiễn giữ vai trò quyết định. Vai trò quyết định của thực tiễn đối với lý luận: Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức, của lý luận đồng thời là tiêu chuẩn để kiểm tra nhận thực, lý luận. Thực tiễn là nguồn gốc cơ sở sinh ra lý luận, nến không có thực tiễn thì không có lý luận, thực tiễn cao hơn lý luận không những ở tính phổ biến mà còn ở tính hiện thực trực tiếp. Sự phản ánh vượt trước của lý luận qua nỗ lực sáng tạo của những thiên tài ở những giai đoạn lịch sử nhất định xét cho đến cùng thì cái làm nên sự vượt trước ấy cũng đã được nảy mầm từ mảnh đất thực tiễn sinh động, đều do thực tiễn gợi ý mách bảo Chỉ có thông qua thực tiễn con người mới vật chất hóa dược lý luận vào đời sống hiện thực. Lý luận không có sức mạnh tự thân mà chỉ có thông qua thực tiễn thì lý luận mới phát huy tác dụng, mới tham gia vào quá trình biến đổi hiện thực. Đánh giá vai trò của thực tiễn đối với lý luận, Lênin viết: “Thực tiễn cao hơn nhận thức, lý luận. Vì nó có ưu điểm không những của tính phổ biến mà còn của tính hiện thực trực tiếp”. Vai trò tác động trở lại của lý luận đối với thực tiễn: Lý luận có thể thúc đẩy tiến trình phát triển của thực tiễn nếu đó là lý luận khoa học và ngược lại có thể kìm hãm sự phát triển của thực tiễn nếu đó là lý luận phản khoa học, phản động, lạc hậu. Lý luận khoa học sẽ trở thành kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn. Nó hướng dẫn, chỉ đạo, soi sáng cho thực tiễn, vạch ra phương pháp giúp hoạt động thực tiễn đi tới thành công. Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: “Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”. Lý luận đem lại cho thực tiễn những tri thức đúng đắn về những quy luật vận động và phát triển của thế giới khách quan, giúp con người xác định đúng mục tiêu để hành động có hiệu quả hơn, tránh được những sai lầm, vấp váp. Lý luận khoa học thâm nhập vào hoạt động của quần chúng tạo nên sức mạnh vật chất, điều chỉnh hoạt động thực tiễn, giúp cho hoạt động của con người trở nên tự giác, chủ động, tiết kiệm được thời gian, công sức, hạn chế những mò mẫm, tự phát. Lý luận khoa học dự kiến sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng trong tương lai, từ đó chỉ ra phương hướng mới cho sự phát triển. Con người ngày càng đi sâu khám phá giới tự nhiên vô cùng vô tận bằng những phương tiện khoa học hiện đại thì càng cần có những dự báo đúng đắn. Nếu dự báo không đúng sẽ dẫn đến những sai lầm, hậu quả xấu không thể lường được trong thực tiễn. Vì thế, chức năng dự báo tương lai là chức năng quan trọng của lý luận. Lý luận cách mạng có vai trò to lớn đối với thực tiễn cách mạng. Lênin cho rằng: “Không có lý luận cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng”. Mác thì nhấn mạnh: “Lý luận khi thâm nhập vào quần chúng thì nó biến thành lực lượng vật chất”. Vai trò của lý luận khoa học ngày càng tăng lên, đặc biệt trong giai đoạn mới của thời đại ngày nay, thời đại của cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc diễn ra gay go, phức tạp, cùng với sự phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Ph. Ăngghen chỉ ra rằng: một dân tộc muốn đứng trên đỉnh cao khoa học thì không thể không có tư duy lý luận. Sự lạc hậu, giáo điều về lý luận dẫn đến sự khủng hoảng về lý luận của chủ nghĩa xã hội trong thời gian qua là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội nói chung, cụ thể là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu trước đây. Nguyên lý thống nhất giữa lý luận và thực tiễn: Theo quan điểm mácxít, lý luận và thực tiễn không tách rời nhau mà giữa chúng có sự liên hệ, xâm nhập và tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc căn bản của triết học Mác – Lênin. Chủ nghĩa Mác – Lênin là tiêu biểu cho sự gắn bó mật thiết giữa lý luận và thực tiễn trong qúa trình hình thành và phát triển của nó. Lý luận Mác – Lênin là sự khái quát thực tiễn CM và lịch sử xã hội, là sự đúc kết những tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận trên các lĩnh vực khác nhau. Sức mạnh của nó là ở chỗ gắn bó hữu cơ với thực tiễn xã hội, được kiểm nghiệm, bổ sung trong thực tiễn. Chính vì vậy mà nó có vai trò cải tạo thế giới chứ không chỉ giải thích thế giới. Chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung và triết học Mác – Lênin nói riêng đã tìm thấy ở giai cấp vô sản vũ khí vật chất của mình và giai cấp vô sản đã tìm thấy ở triết học Mác – Lênin vũ khí tinh thần của mình. Lênin từng nhắc nhở những người cộng sản ở các nước phải biết cụ thể hóa chủ nghĩa Mác – Lênin cho thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh từng lúc, từng nơi. Lý luận cần phải được bổ sung bằng những kết luận mới được rút ra từ thực tiễn sinh động. Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: “Thống nhất lý luận với thực tiễn là nguyên tắc căn bản của triết học Mác – Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông” hoặc “Có kinh nghiệm mà không có lý luận cũng như một mắt sáng một mắt mờ”. 4- Ý nghĩa phương pháp luận: Việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn có ý nghĩa rất quan trọng, giúp chúng ta tránh được bệnh kinh nghiệm cũng như bệnh giáo điều và rút ra được những quan điểm đúng đắn trong nhận thức và cuộc sống. Trước hết, cần phải quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, sâu sát thực tiễn, tổ chức hoạt động thực tiễn để triển khai lý luận, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn để bổ sung phát triển lý luận. Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành, tránh tình trạng quan liêu, bàn giữaấy, sách vở, xa rời thực tiễn. Đồng thời cần phải phát huy vai trò của lý luận đối với thực tiễn. Phát huy vai trò của lý luận yêu cầu phải nâng cao trình độ tư duy lý luận, đổi mới phương pháp tư duy cho toàn Đảng, toàn dân nghĩa là chuyển từ tư duy kinh nghiệm sang tư duy lý luận, từ tư duy siêu hình, duy tâm sang tư duy biện chứng duy vật; đổi mới công tác lý luận, hướng công tác lý luận vào những vấn đề do cuộc sống đặt ra, làm rõ những căn cứ khách quan của đường lối chính sách của Đảng. Nếu coi thường thực tiễn và tách rời lý luận với thực tiễn thì sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều. + Bệnh kinh nghiệm: là căn bệnh tuyệt đối hóa kinh nghiệm, nhận thức và hành động chỉ dựa vào kinh nghiệm, đề cao vai trò thực tiễn, hạ thấp lý luận, không chịu học hỏi để vương lên, không coi trọng việc tổng kết thực tiễn để khái quát thành lý luận. Thể hiện ở chỗ tuyệt đối hoá kinh nghiệm, coi thường lý luận, “chỉ biết tối ngày vùi đầu vào công tác sự vụ”, ít đào sâu suy nghĩ, nhất là đối với những người trình độ văn hoá kém, ít quen đọc sách và suy nghĩ, áp dụng kinh nghiệm một cách thiếu sáng tạo. + Bệnh giáo điều: là căn bệnh tuyệt đối hóa lý luận, nhận thức và hành động chỉ dựa vào lý luận, coi lý luận là “chìa khóa vạn năng” cho tư duy và hành động, bất chấp điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Thể hiện ở chỗ: coi tri thức là chân lý tuyệt đối, là cứng nhắc, tách lý luận khỏi thực tiễn, rơi vào bệnh lý luận suông, không biết cụ thể hóa lý luận cách mạng cho thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh của từng lúc, từng nơi, không biết bổ sung lý luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động và vận dụng một cách máy móc, rập khuôn, cứng nhắc, thiếu sáng tạo vào hoạt động nhận thức cũng như hoạt động cải tạo hiện thực mà không chú ý đến điều kiện lịch sử cụ thể đối tượng, mang lại hiệu quả xấu cho hoạt động lý luận và thực tiễn. Xét từ khía cạnh trình độ nhận thức thì bệnh giáo điều có nguồn gốc từ sự yếu kém về tư duy lý luận, nhất là lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Để khắc phục hai căn bệnh trên cần phải xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, thường xuyên tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển lý luận, đồng thời phải coi trọng lý luận, nâng cao trình độ tư duy lý luận. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu “phải học tập tinh thần chủ nghĩa Mác-Lênin, học tập lập trường quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin để áp dụng giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta”. Từ nhận thức đúng đắn mối quan hệ biện chứng giưa lý luận và thực tiễn, Hồ Chí Minh đã phê phán sai lầm của chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa giáo điều. Khi đặt vấn đề phải học tập lý luận theo Người, học lý luận không phải để thuộc lòng từng câu từng chữ, cũng không phải học lý luận để đem loà thiên hạ, để kiêu ngạo, để mặc cả với Đảng, để trở thành những người lý luận suông. Mà mục đích học tập lý luận để tự cải tạo mình, để tránh mò mẫm, để đỡ phạm sai lầm trong công tác, để hoàn thành tốt hơn các nhiệm vụ cách mạng mà Đảng và nhân dân giao phó. Học tập lý luận là cốt áp dụng vào thực tế và khi vận dụng thì bổ sung, làm phong phú thêm lý luận bằng những lý luận mới sinh ra từ trong thực tiễn. 5- Sự vận dụng của Đảng ta: Trước đổi mới: Do chưa nhận thức đầy đủ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình lịch sử tương đối dài, phải trải qua nhiều chặng đường, chưa gắn lý luận với thực tế điều kiện, hoàn cảnh ở nước ta nên đã chủ quan, nóng vội, bỏ qua những bước đi cần thiết. Một trong những sai lầm trong chính sách của Đảng trong thời kỳ trước đổi mới là xuất phát từ căn bệnh giáo điều, xuất phát từ sự lạc hậu, yếu kém về lý luận cách mạng xã hội chủ nghĩa. Sự yếu kém về lý luận làm cho chúng ta tiếp thu lý luận Chủ nghĩa Mác Lênin một cách giản đơn, phiến diện, cắt xén sơ lược, không đến nơi đến chốn, CNXH được hiểu một cách giản đơn, ấu trĩ. Trong thời kỳ này, đã có lúc ta bắt chước rập khuôn mô hình CNXH ở Liên Xô trong việc thành lập các bộ ngành của bộ máy nhà nước. Hoặc áp dụng máy móc theo học thuyết của Mác về kinh tế là phải xóa bỏ tư hữu, do đó khi áp dụng vào nước ta, Đảng đã có biểu hiện nóng vội trong việc tiến hành cải tạo XHCN nhằm xóa tất cả các thành phần kinh tế mà không thấy được vai trò quan trọng của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Đảng ta cũng vấp phải những sai lầm trong việc đề ra chủ trương, đường lối, chính sách phát triển đất nước: Chủ trương tập trung cho công nghiệp hóa đất nước mà chủ lực là phát triển công nghiệp nặng mà không chú ý đến điều kiện vật chất và lực lượng sản xuất của ta còn chưa tương xứng, với xuất phát điểm còn rất thấp từ một nền kinh tế lạc hậu, sản xuất nông nghiệp là chính, trình độ lực lượng sản xuất không cao, sản xuất thủ công là chủ yếu. Có thể nói việc bố trí cơ cấu kinh tế trước hết là sản xuất và đầu tư, chúng ta thường chỉ xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh, không tính đến điều kiện khả năng thực tế. Sự nhận thức giản đơn, yếu kém trong việc vận dụng xơ cứng lý luận vào trong còn thể hiện ở việc hiểu và vận dụng chưa đúng các quy luật khách quan đang tác động trong thời kỳ quá độ ở nước ta (quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, các quy luật sản xuất hàng hoá, quy luật thị trường…), quá nhấn mạnh một chiều vai trò của quan hệ sản xuất, của chế độ công hữu, chế độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ. Mặt khác, duy trì quá lâu cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, quá tập trung quyền lực nhà nước, dùng kế hoạch pháp lệnh để chỉ huy toàn bộ nền kinh tế đất nước, bao cấp trong phân phối … làm cản trở sự sáng tạo, tạo nên sự bảo thủ trì trệ của đời sống xã hội. Cũng trong thời kỳ này chúng ta đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản, coi nhẹ những giá trị, những thành tựu mà nhân loại đạt được trong chủ nghĩa tư bản; muốn nhanh chóng xoá bỏ sản xuất hàng hoá, xoá bỏ sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc xem kinh tế thị trường, sản xuất hàng hóa đối lập với CNXH là do căn cứ một cách cứng nhắc vào luận điểm của Mác và Ăngghen rằng chủ nghĩa cộng sản là xóa bỏ buôn bán; cùng với việc xã hội nắm lấy những tư liệu sản xuất thì sản xuất hàng hóa cũng bị loại trừ và do đó sự thống trị của hàng hóa đối với những người sản xuất cũng bị loại trừ. Thực ra những luận điểm của CácMác và Ăngghen chỉ là những dự đoán về giai đoạn phát triển cao của chủ nghĩa cộng sản chứ không phải nói về giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản : giai đoạn chủ nghĩa xã hội. Ngược lại, trong giai đoạn chủ nghĩa xã hội, Mác đã nhấn mạnh : đó là một xã hội vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, vì vậy về mọi phương diện kinh tế, đạo đức, tinh thần nó vẫn còn mang những dấu vết của xã hội cũ, nói cách khác, hệ thống kinh tế – xã hội của CNXH còn mang nhiều dấu ấn của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Như vậy, làm sao xóa ngay được cái “dấu vết” đặc trưng của chủ nghĩa tư bản là kinh tế hàng hóa cũng như không thể xóa bỏ chế độ tư hữu ngay lập tức mà chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dần dần. Hậu quả của những sai lầm xuất phát sự nhận thức yếu kém về lý luận và xa rời thực tiễn đã làm cho đường lối chính sách của Đảng ta đề ra không phù hợp với thực tiễn nên đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội : Nnhiều vấn đề mấu chốt và thiết yếu nhất của cuộc sống nhân dân (ăn, mặc, ở) vẫn chưa được giải quyết đầy đủ; đất nước chưa có những thay đổi sâu sắc và triệt để trong phương thức phát triển; tình trạng mất cân đối trong nền kinh tế ngày càng trầm trọng; nhiệt tình lao động và năng lực sáng tạo của nhân dân, tài nguyên và các nguồn lực chưa được khai thác, phát huy đầy đủ, thậm chí bị xói mòn. Nhìn tổng quát, với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, nền kinh tế Việt Nam vận động thiếu năng động và kém hiệu quả. Những mất cân đối và nguy cơ bất ổn định tiềm tàng trong đời sống kinh tế – xã hội bị tích nén lại Tình trạng thiếu hụt kinh niên làm gia tăng các căng thẳng trong đời sống xã hội. Lòng tin của quần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước giảm sút. Trên thực tế, đến cuối những năm 70, đất nước đã thực sự lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội. Vấn đề cấp bách đặt ra cho Đảng cộng sản và Nhà nước Việt Nam lúc này là tìm kiếm cách thức phát triển mới có khả năng đáp ứng các mục tiêu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong đó quan trọng nhất là phải tháo gỡ các ràng buộc về cơ chế và thể chế để giải phóng các nguồn lực phát triển của đất nước. Đại hội IV chưa xác định được những mục tiêu của chặng đường đầu tiên. Cụ thể là trong 5 năm 1976 – 1980, đảng ta chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết, chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, cụ thể là đã đề ra những chỉ tiêu kế hoạch quá cao về xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất, không coi trọng đúng mức việc khôi phục và sắp xếp lại nền kinh tế, chỉ thiên về xây dựng công nghiệp nặng và những công trình quy mô lớn, không tập trung sức giải quyết căn bản vấn đề lương thực, thực phẩm, phát triển hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Đại hội V đã cụ thể hóa một bước đường lối kinh tế trong chặng đường trước mắt, đề ra những mục tiêu tổng quát, các chính sách lớn về kinh tế, xã hội nhưng trong chỉ đạo thực hiện đã không quán triệt đầy đủ các quy luật khách quan, chưa kiên quyết khắc phục tư tưởng nóng vội chủ quan và bảo thủ thể hiện chủ yếu trong các chủ trương về cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và cơ chế quản lý kinh tế. Cụ thể là đã chưa thật sự coi trọng phát triển nông nghiệp, coi nhẹ về tổ chức, đầu tư, chính sách đối với công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, kể cả tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp. Về xây dựng cơ bản, vẫn thiên về xây dựng các công trình quy mô lớn nhưng chưa thật cấp bách, kém hiệu quả dẫn đến sự phân tán về tiền vốn và vật tư. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, đi đôi với việc ra sức xây dựng những cơ sở và lực lượng kinh tế mới, phải rất coi trọng cải tạo và sử dụng tốt các cơ sở và lực lượng kinh tế sẵn có bằng những hình thức và bước đi thích hợp. Nhưng chúng ta chưa xác định rõ ràng, nhất quán những quan điểm, chủ trương chính sách chỉ đạo công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, đã có những biều hiện nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế tư bản tư nhân, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh. Đối với kinh tế tiểu

Ý Nghĩa Khoa Học Và Thực Tiễn

Cùng dự còn có các đồng chí Lê Quang Dực, Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy; Nguyễn Văn Trình, Ủy viên Ban Thường vụ, Chỉ huy trưởng Bộ CHQS tỉnh; lãnh đạo Sở Văn hóa-Thông tin, Quân khu I, Quân khu II; đại diện Ban Tuyên giáo TW, Bộ Thông tin Truyền thông, Viện Lịch sử Việt Nam…

Cách đây tròn 60 năm, trên mảnh đất lịch sử Việt Bắc-Căn cứ địa kháng chiến của cả nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã anh dũng đập tan cuộc tiến công chiến lược quy mô lớn của thực dân Pháp lên Việt Bắc. Với chiến thắng oanh liệt này, quân và dân ta đã đánh bại hoàn toàn chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của thực dân Pháp, đảm bảo an toàn cho các cơ quan đầu não của TW.

Chiến thắng Việt Bắc trở thành một sự kiện lịch sử lớn trong cuộc kháng chiến chống xâm lược của dân tộc ta, trở thành biểu tượng của ý chí quyết chiến, quyết thắng, thể hiện khí phách kiên cường và sức mạnh sáng tạo của quân và dân ta. Thắng lợi đã khẳng định sự đúng đắn đường lối kháng chiến của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Cuộc hội thảo về Chiến thắng Việt Bắc Thu đông 1947 mang nhiều ý nghĩa cả về khoa học và thực tiễn, nhằm khẳng định và làm sáng tỏ thêm về một số vấn đề: Âm mưu và hành động xâm lược, bản chất hiếu chiến, phiêu lưu mạo hiểm của thực dân Pháp thông qua kế hoạch tiến công lên Việt Bắc hòng phá căn cứ địa và chụp bắt cơ quan đầu não kháng chiến của ta; Sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt của TW Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân tố quyết định thắng lợi của chiến dịch Việt Bắc và toàn bộ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp; Tinh thần chiến đấu ngoan cường, dũng cảm, mưu trí, sáng tạo của quân và dân ta mà trực tiếp là quân, dân vùng Việt Bắc đã tạo nên sức mạnh to lớn của cuộc chiến tranh nhân dân chống lại kẻ thù xâm lược trong giai đoạn đầu rất khó khăn của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp; nghệ thuật chỉ đạo xây dựng và bảo vệ căn cứ địa, bảo vệ cơ quan đầu não TW, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh của cuộc chiến tranh nhân dân; tầm vóc, ý nghĩa, nguyên nhân thắng lợi và những bài học kinh nghiệm về xây dựng, bảo vệ đất nước, vận dụng và phát huy trong sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng, an ninh nhân dân hiện nay.

Ý Nghĩa Thực Tiễn Của Sinh Hoạt Chi Bộ

Sinh hoạt chi bộ là nghĩa vụ, trách nhiệm hết sức quan trọng của mỗi chi bộ và đảng viên. Việc nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ là nhiệm vụ quan trọng nhằm nâng cao chất lượng chi bộ và có ý nghĩa quyết định trong việc nâng cao vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, giúp đảng viên nâng cao nhận thức chính trị tư tưởng và thực hiện chức năng lãnh đạo, giáo dục của chi bộ. Đảng ta đã nhiều lần đề cập việc nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, trong đó có Hướng dẫn số 09-HD/BTCTW ngày 2-3-2012 của Ban Tổ chức Trung ương.

Nói sinh hoạt chi bộ là hoạt động rất quan trọng, bởi có các ý nghĩa sau:

Thứ nhất, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Với vai trò lãnh đạo toàn diện, tổ chức đảng luôn thể hiện được khả năng định hướng, dẫn dắt, quyết định… các hoạt động của cơ quan, đơn vị và các đoàn thể trong cơ quan, đơn vị cùng các hoạt động của đảng viên trong khuôn khổ thực hiện chức trách, nhiệm vụ của mình. Vai trò đó có ý nghĩa quan trọng trong việc hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị cũng như tham gia tích cực vào công tác xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh.

Vì ý nghĩa đó, trong một cuộc sinh hoạt chi bộ có chất lượng, các vấn đề, nhất là các khiếm khuyết, hạn chế của chi bộ, của cơ quan, đơn vị, của các đoàn thể và của từng đảng viên, được đưa ra phân tích, làm rõ… nhằm khẳng định cái đúng, phê bình và đấu tranh với cái sai. Qua đó, tổ chức và đảng viên tích cực được biểu dương, được động viên và tiếp tục phát huy; các tổ chức và cá nhân có sai sót, hạn chế được góp ý, rút kinh nghiệm nhằm sửa chữa hoàn thiện hơn. Nếu một tổ chức đảng thực sự trong sạch, vững mạnh sẽ không có hoặc có rất ít những đảng viên suy thoái, biến chất; ngược lại, nếu tất cả hoặc tuyệt đại đa số đảng viên gương mẫu, vững vàng, có năng lực, phẩm chất tốt… sẽ góp phần quyết định vào việc xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh.

Thứ hai, nâng cao nhận thức, tự giác chấp hành các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho đảng viên.

Các chi bộ trong tất cả các loại hình tổ chức đều phải thực hiện nghiêm túc chế độ sinh hoạt định kỳ theo quy định của Điều lệ Đảng và hoạt động của các tổ chức đảng cũng phải tuân thủ theo các quy định của Đảng. Bên cạnh đó, tổ chức đảng và đảng viên còn phải tuân thủ theo Hiến pháp và pháp luật, trong việc quản lý, điều hành và thực hiện các nhiệm vụ chính trị. Do đó, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ luôn gắn với việc không ngừng nâng cao nhận thức, ý thức tự giác chấp hành các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để thực hiện các chủ trương, đường lối đó trong điều kiện cụ thể của mình.

Vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng thông qua các cuộc sinh hoạt chi bộ là tác động, thúc đẩy, định hướng, giám sát và kiểm tra để cơ quan, đơn vị hoàn thành nhiệm vụ chính trị theo chức năng, nhiệm vụ của mình. Trong các cuộc sinh hoạt chi bộ, công tác xây dựng Đảng và việc thực hiện nhiệm vụ chính trị luôn được đặt song song, xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh là để thực hiện nhiệm vụ chính trị tốt hơn và thực hiện nhiệm vụ chính trị cũng chính là để góp phần xây dựng chi bộ trong sạch, vững mạnh. Do đó, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ luôn có ý nghĩa tạo ra động lực, phương hướng, giải pháp một cách hợp lý nhất, hiệu quả nhất để thực hiện thành công đồng thời hai nhiệm vụ đó. Từ đây, nhận thức và ý thức tự giác của mỗi đảng viên được nâng cao, tính tiên phong, gương mẫu cũng được thể hiện rõ nét.

Thứ ba, giúp đảng viên nâng cao ý thức trách nhiệm, tích cực học tập, tu dưỡng, rèn luyện, thực hiện tốt nhiệm vụ.

Đảng ta có 5 nguyên tắc tổ chức và hoạt động, gồm: nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, nguyên tắc tự phê bình và phê bình, nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh và tự giác, nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong Đảng. Các nguyên tắc này phải được thể hiện ở từng đảng viên thì tổ chức đảng và toàn Đảng mới có thể thực sự trong sạch, vững mạnh và khẳng định được vai trò cũng như sức chiến đấu của mình.

Với việc nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, các đảng viên được nâng cao ý thức trách nhiệm, được học tập, được động viên, kích thích sự tu dưỡng, rèn luyện, từ đó thực hiện tốt nhiệm vụ của người đảng viên. Thậm chí, với tính kỷ luật, sự gương mẫu… các đảng viên không ngừng học tập, rèn luyện, tu dưỡng một cách nghiêm túc, thiết thực. Bởi sự thể hiện của mỗi cá nhân đảng viên có tác động đến sự thể hiện (chính là vai trò lãnh đạo) của tổ chức đảng, nếu tất cả đảng viên đều gương mẫu, tích cực thì tổ chức đảng vững mạnh, có khả năng thuyết phục được quần chúng; ngược lại, nếu nhiều đảng viên tha hóa, biến chất, thiếu gương mẫu thì tổ chức đảng mất dần vai trò của mình.

Cũng thông qua việc nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, các đảng viên được rèn luyện để nâng cao ý thức tổ chức, kỷ luật, tinh thần tự phê bình và phê bình, tăng cường đoàn kết, thống nhất và tình thương yêu đồng chí. Có thể nói, sinh hoạt chi bộ là một dịp để mỗi đảng viên được trải nghiệm, được học, được rèn giũa các phẩm chất đó. Vì vậy, một cuộc sinh hoạt chi bộ nhàm chán, đơn điệu không chỉ làm mất dần vai trò lãnh đạo của chi bộ mà còn làm các đảng viên mất tính năng động, sáng tạo, tăng tính thụ động và sức “ỳ”.

Sinh hoạt có chất lượng chính là dịp để các đảng viên bộc lộ mình một cách rõ ràng, cụ thể, qua đó có thể nắm chắc tình hình tư tưởng, phẩm chất đạo đức, lối sống của đảng viên và có biện pháp cụ thể để xây dựng đội ngũ đảng viên và xây dựng chi bộ trong sạch, vững mạnh.