Top 9 # Xem Nhiều Nhất Ý Nghĩa Khoa Học Của Luật So Sánh Mới Nhất 5/2023 # Top Like | Shareheartbeat.com

Khoa Học Luật So Sánh

Từ những phân tích trên có thể khái quát luật học so sánh là tổng thể các tri thức về việc nghiên cứu so sánh pháp luật nước ngoài .

Trong quá trình nghiên cứu về luật học so sánh cần phải phân biệt thuật ngữ luật học so sánh trên 3 nghĩa: là một khoa học, là một phương pháp và là một môn học.

Với tư cách là một phương pháp nghiên cứu khoa học, so sánh pháp luật là một trong những phương pháp quan trọng của việc nghiên cứu các hiện tượng pháp lý. Thông qua việc sử dụng phương pháp so sánh pháp luật mà chúng ta có khả năng làm sáng tỏ cái chung nhất, cái đặc thù và cái đơn nhất của các hệ thống pháp luật.

Với tư cách là một ngành khoa học, luật học so sánh là tổng thể những tri thức khoa học về các hệ thống pháp luật hiện hành được thể hiện trong các công trình nghiên cứu khoa học của các học giả.

Với tư cách là một môn học, luật học so sánh là đối tượng giảng dạy tại các cơ sở đào tạo luật, dưới các mức độ khác nhau, cụ thể có thể ở dạng nhập môn luật học so sánh và cũng có thể ở dưới dạng một lĩnh vực cụ thể như luật hành chính so sánh, luật thương mại so sánh, luật hình sự so sánh…

Việc luật học so sánh có phải là một ngành khoa học hay không đã gây ra nhiều sự tranh cãi, tuy nhiên, trong thực tiễn cho thấy, ngày nay có những lĩnh vực, có những vấn đề, có những hệ thống pháp luật sẽ không thể được nghiên cứu có kết quả nếu không tiếp cận dưới góc độ so sánh pháp luật, chẳng hạn như việc nghiên cứu các hệ thống pháp luật khác nhau trên thế giới; việc nghiên cứu những cơ sở xã hội, kinh tế, chính trị và truyền thống của sự ra đời và nội dung của các chế định pháp luật tương ứng trong hệ thống pháp luật của các quốc gia khác nhau; việc nghiên cứu kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật của nước ngoài…. Tất cả điều đó nói lên rằng, luật học so sánh có những đặc điểm, dấu hiệu riêng của một môn khoa học, nó có đối tượng nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu của riêng mình.

Đối tượng nghiên cứu của luật học so sánh

Đối tượng nghiên cứu của luật học so sánh là nghiên cứu pháp luật nước ngoài, trên cơ sở đối chiếu các hệ thống pháp luật với nhau và với hệ thống pháp luật quốc gia, cụ thể:

– Những vấn đề phương pháp luận của việc so sánh trong pháp luật (lý luận về phương pháp so sánh pháp luật);

– Nghiên cứu so sánh các hệ thống pháp luật cơ bản trên thế giới;

– So sánh các nguồn pháp luật của các hệ thống pháp luật trên thế giới;

– So sánh các chức năng và một số loại nghiên cứu pháp luật so sánh khác được định hướng về mặt xã hội học;

– Nghiên cứu so sánh pháp luật về mặt lịch sử.

Với đối tượng nghiên cứu bao gồm những vấn đề khái quát đã đưa ra ở trên cho thấy luật học so sánh là một khoa học. Khoa học luật so sánh được thể hiện trên 2 phương diện, cụ thể:

Thứ nhất, khoa học luật so sánh gắn liền việc sử dụng phương pháp so sánh trong nghiên cứu các chế định pháp luật và các vấn đề cụ thể của đất nước mà người nghiên cứu thuộc về đất nước đó. Trong trường hợp này, vấn đề pháp luật cụ thể được nghiên cứu trên cơ sở so sánh pháp luật rộng lớn hơn hoặc hẹp hơn. Thông thường việc so sánh này thường được tiến hành ở tầm vỹ mô, trong phạm vi của một lĩnh vực pháp luật cụ thể.

Thứ hai, thể hiện với tư cách là việc nghiên cứu mang tính tự trị, độc lập pháp luật nước ngoài ở mức độ các hệ thống pháp luật nói chung, ở mức độ các ngành pháp luật cụ thể và các chế định pháp luật cơ bản, việc nghiên cứu ở góc độ này cho phép xác định khuynh hướng phát triển của pháp luật.

Với đối tượng nghiên cứu rộng, luật học so sánh cung cấp cho người nghiên cứu những kết quả khoa học của riêng nó trên cả hai mặt: nhận thức – lý luận và ứng dụng – thực tiễn. Nó vừa là việc áp dụng phương pháp so sánh với tư cách là phương thức khoa học riêng, đặc thù của việc nghiên cứu, vừa là khuynh hướng của các nghiên cứu về pháp luật nói chung. Ở bình diện là khuynh hướng nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu của luật học so sánh là:

Những vấn đề phương pháp luận của nghiên cứu so sánh pháp luật (ở đây lý luận về phương pháp so sánh chiếm vị trí đặc biệt);

Việc nghiên cứu các hệ thống pháp luật cơ bản hiện nay trên thế giới;

Việc khái quát hóa và hệ thống hóa các kết quả của những nghiên cứu so sánh pháp luật cụ thể;

Việc soạn thảo các quy tắc phương pháp cụ thể và các quá trình của nghiên cứu so sánh pháp luật;

Việc nghiên cứu so sánh pháp luật về mặt lịch sử;

Việc nghiên cứu so sánh những vấn đề pháp lý quốc tế hiện nay.

Mcj: Bậc Thầy Của Pháp Luật Ở Khoa Học Luật Pháp So Sánh Độ

MCJ có nghĩa là gì? MCJ là viết tắt của Bậc thầy của pháp luật ở khoa học luật pháp so sánh độ. Nếu bạn đang truy cập phiên bản không phải tiếng Anh của chúng tôi và muốn xem phiên bản tiếng Anh của Bậc thầy của pháp luật ở khoa học luật pháp so sánh độ, vui lòng cuộn xuống dưới cùng và bạn sẽ thấy ý nghĩa của Bậc thầy của pháp luật ở khoa học luật pháp so sánh độ trong ngôn ngữ tiếng Anh. Hãy nhớ rằng chữ viết tắt của MCJ được sử dụng rộng rãi trong các ngành công nghiệp như ngân hàng, máy tính, giáo dục, tài chính, cơ quan và sức khỏe. Ngoài MCJ, Bậc thầy của pháp luật ở khoa học luật pháp so sánh độ có thể ngắn cho các từ viết tắt khác.

MCJ = Bậc thầy của pháp luật ở khoa học luật pháp so sánh độ

Tìm kiếm định nghĩa chung của MCJ? MCJ có nghĩa là Bậc thầy của pháp luật ở khoa học luật pháp so sánh độ. Chúng tôi tự hào để liệt kê các từ viết tắt của MCJ trong cơ sở dữ liệu lớn nhất của chữ viết tắt và tắt từ. Hình ảnh sau đây Hiển thị một trong các định nghĩa của MCJ bằng tiếng Anh: Bậc thầy của pháp luật ở khoa học luật pháp so sánh độ. Bạn có thể tải về các tập tin hình ảnh để in hoặc gửi cho bạn bè của bạn qua email, Facebook, Twitter, hoặc TikTok.

Như đã đề cập ở trên, MCJ được sử dụng như một từ viết tắt trong tin nhắn văn bản để đại diện cho Bậc thầy của pháp luật ở khoa học luật pháp so sánh độ. Trang này là tất cả về từ viết tắt của MCJ và ý nghĩa của nó là Bậc thầy của pháp luật ở khoa học luật pháp so sánh độ. Xin lưu ý rằng Bậc thầy của pháp luật ở khoa học luật pháp so sánh độ không phải là ý nghĩa duy chỉ của MCJ. Có thể có nhiều hơn một định nghĩa của MCJ, vì vậy hãy kiểm tra nó trên từ điển của chúng tôi cho tất cả các ý nghĩa của MCJ từng cái một.

Ý nghĩa khác của MCJ

Bên cạnh Bậc thầy của pháp luật ở khoa học luật pháp so sánh độ, MCJ có ý nghĩa khác. Chúng được liệt kê ở bên trái bên dưới. Xin vui lòng di chuyển xuống và nhấp chuột để xem mỗi người trong số họ. Đối với tất cả ý nghĩa của MCJ, vui lòng nhấp vào “thêm “. Nếu bạn đang truy cập phiên bản tiếng Anh của chúng tôi, và muốn xem định nghĩa của Bậc thầy của pháp luật ở khoa học luật pháp so sánh độ bằng các ngôn ngữ khác, vui lòng nhấp vào trình đơn ngôn ngữ ở phía dưới bên phải. Bạn sẽ thấy ý nghĩa của Bậc thầy của pháp luật ở khoa học luật pháp so sánh độ bằng nhiều ngôn ngữ khác như tiếng ả Rập, Đan Mạch, Hà Lan, Hindi, Nhật bản, Hàn Quốc, Hy Lạp, ý, Việt Nam, v.v.

So Sánh Về Trình Tự Điều Tra Giữa Luật Tths Của Trung Quốc Và Việt Nam, Hot!

Các bạn có thể DOWNLOAD phía dưới, hoặc các bạn liên hệ qua SDT/ZALO 0932091562 để được hỗ trợ

Do đó, dưới góc độ khoa học – thực tiễn, đòi hỏi cần có sự nghiên cứu thấu đáo và đầy đủ để tiếp tục hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra. Trung Quốc (Cộng hòa nhân dân Trung Hoa) có đơn vị hành chính gồm 22 tỉnh, năm khu tự trị, bốn thành phố trực thuộc Trung ương (Bắc Kinh, Thiên Tân, Thượng Hải, Trùng Khánh) và hai vùng hành chính đặc biệt (Hồng Kông và Ma Cao). Thủ đô là Bắc Kinh. Từ khi tiến hành đổi mới kinh tế năm 1978, Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới. Xét riêng trong lĩnh vực xây dựng và cải cách pháp luật, đặc biệt là pháp luật tố tụng hình sự, nhìn từ góc độ của Luật so sánh, chúng ta có thể thấy trong gần hai mươi năm trước, những quy định về giai đoạn điều tra trong Luật tố tụng hình sự của Trung Quốc và Việt Nam về cơ bản có nhiều điểm tương đối giống nhau, đều coi trọng việc điều tra để làm rõ sự việc phạm tội và truy lùng bị can, tôn trọng và bảo đảm pháp chế, – rất coi trọng sự công minh, nghiêm chỉnh của thủ tục và trình tự trong giai đoạn điều tra, song ở một chừng mực nhất định còn chưa thực sự chú ý đến việc bảo vệ các quyền 4 và lợi ích hợp pháp của bị can trong tố tụng hình sự. Đến những năm gần đây, cũng như ở Việt Nam, tùy theo xu thế phát triển của pháp luật tố tụng hình sự trên thế giới, Trung Quốc đã và đang tiến hành cải cách tư pháp, lập pháp, trong đó có các quy định điều tra để có những thay đổi cho phù hợp với thể chế chính trị, tổ chức bộ máy nhà nước, cũng như các điều kiện về xã hội, kinh tế, văn hóa, lịch sử và mối tương quan với các cơ quan bổ trợ tư pháp và các cơ quan nhà nước khác. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thị trường, trong xu hướng không ngừng thúc đẩy đường lối “pháp trị”, công tác điều tra cũng đứng trước những thách thức và áp lực trước đây chưa từng phải đối mặt, nên sau một thời gian dài, từ năm 1997, Trung Quốc đã chính thức đặt ra vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra để đối phó kịp thời và có hiệu quả về sự gia tăng về số lượng của tội phạm hình sự và việc tăng cường pháp chế, nhưng do cơ chế điều tra không thuận lợi, tổ chức cơ cấu điều tra chưa hợp lý, sự điều tra quá chú trọng vào việc truy bắt tội phạm mà xem nhẹ việc bảo vệ quyền con người, thông tin và kỹ thuật điều tra lạc hậu, mô hình điều tra đơn nhất; đội ngũ điều tra lực lượng mỏng, chất lượng yếu kém, cơ chế vận hành công tác điều tra chưa hoàn thiện; v.v… Tất cả những điều này làm giảm hiệu quả công tác điều tra, khám phá tội phạm, do đó cũng đòi hỏi phải nghiên cứu đầy đủ để có giải pháp khả thi khắc phục vấn đề này, mà một trong những giải pháp quan trọng là nghiên cứu so sánh pháp luật và tiếp thu kinh nghiệm thực tiễn nước ngoài. Cụ thể, việc nghiên cứu so sánh các quy định của về Cơ quan điều tra của Trung Quốc và Việt Nam, qua đó phân tích, đánh giá các ưu điểm và hạn chế, cũng như các hiệu quả chính trị – xã hội, kinh tế của việc tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra của hai nước sẽ có giá trị tham khảo cao về phương diện học thuật và góp phần hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra, đồng thời mở rộng hợp tác trong điều tra hình sự của hai nước. Tuy nhiên, hiện nay trong khoa học pháp lý của Trung Quốc và của Việt Nam, việc phân tích chuyên sâu về vấn đề so sánh này chưa được quan 5 tâm nghiên cứu đúng mức. Đặc biệt, ở Trung Quốc, các chuyên gia pháp luật chủ yếu nghiên cứu hệ thống pháp lý quốc tế về hình sự tập trung vào các nước như: Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Đức, Ý, Nhật Bản và các nước phát triển khác, mà không chú ý đến sự khác biệt về điều kiện của các yếu tố nội bộ như thể chế chính trị, tổ chức bộ máy, các điều kiện về xã hội, kinh tế, văn hóa, truyền thống lịch sử; v.v… Do đó, các nghiên cứu này thông thường không đem lại lợi ích trực tiếp và cần thiết với sự cải cách hệ thống tư pháp hình sự nói chung, hệ thống pháp luật tố tụng hình sự nói riêng của Trung Quốc. Do đó, cần có sự nghiên cứu với một nước mà có các yếu tố nội bộ tương đồng hoặc gần với Trung Quốc (như Việt Nam), thì giá trị phục vụ công cuộc cải cách tư pháp tốt hơn. Bởi lẽ, ở một góc độ nào đó, thông qua những ưu điểm của việc tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra Việt Nam và thực tiễn của nó có thể cung cấp cho chúng ta những kinh nghiệm lập pháp và bài học thực tiễn quý báu. Do đó, với những lý do nêu trên, là một giáo viên giảng dạy pháp luật tố tụng hình sự của Bộ môn Tư pháp thuộc Học viện pháp lý – Đại học Dân tộc Quảng Tây (nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa), nghiên cứu sinh quyết định lựa chọn đề tài ” Nghiên cứu so sánh về trình tự điều tra giữa Luật tố tụng hình sự của Trung Quốc và Việt Nam ” làm đề tài nghiên cứu cho luận án tiến sĩ luật học của mình.

Ngoài ra, dưới góc độ khác còn có các giáo trình của một số cơ sở đào tạo như:

1) Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, do TS. Nguyễn Ngọc Chí chủ biên;

2) Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2009, do PGS. TS. Hoàng Thị Minh Sơn chủ biên;

3) Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, 2006, của 7 ThS. Trần Văn Sơn chủ biên;

1) Vài suy ngẫm về mô hình điều tra, đăng trên Tạp chí Điều tra, Quyển 1, Nxb Đại học Cảnh sát nhân dân Trung Quốc, 2002;

2) Tổ nghiên cứu tăng cường và cải cách công tác điều tra, do Bộ Công an chủ biên, “Báo cáo nghiên cứu Chuyên đề hội nghị Công an nhân dân toàn quốc lần thứ 20″, Nxb Đại học Cảnh sát nhân dân, 2003;

3) Làm thế nào đề công tác điều tra đối phó được với những thách thức của xu hướng toàn cầu hóa kinh tế và hiện đại hóa pháp chế, Tạp chí Điều tra, Quyển 1, Nxb Đại học Cảnh sát nhân dân, của tác giả Thôi Mẫn, 2003;

4) Kiên trì thúc đẩy và sâu hoá cải cách điều tra hình sự, Báo cáo nghiên cứu cải cách điều tra hình sự, Nxb Đại học Cảnh sát nhân dân Trung Quốc, của tác giả Bạch Cảnh Phúc, 2002;

5) Những thành quả to lớn trong đổi mới điều tra hình sự của Cơ quan điều tra toàn quốc, Nhật báo pháp chế, ngày 18/7/2002 của tác giả Dịch Huệ Mẫn; v.v…

Ngoài ra, dưới góc độ sách chuyên khảo, tham khảo có các công trình:

1) Tổng quan nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự”, Nxb Pháp luật, 2002 của tác giả Ngõa Trinh;

2) Bàn về sự chuyển đổi và cải cách mô hình điều tra, Nxb Đại học Cảnh sát nhân dân, 2002 của tác giả Phàn Sùng Nghị;

3) Chủ nghĩa hợp lý tương đối, Nxb Đại học Luật Trung Quốc, 1999 của tác giả Long Tống Trí;

4) Diễn tiến của mô hình tố tụng hình sự, Nxb Đại học Cảnh sát nhân dân, 2004 của tác giả Vương Hải Yến; v.v… Ngoài ra, dưới góc độ chung còn các giáo trình Lý luận chung về Luật tố tụng hình sự Trung Quốc do các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp pháp học của các trường đại học xuất bản gần đây có đề cập riêng biệt về tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra; v.v…

Những công trình nói trên đã góp phần làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn 8 về tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra trong các nước của mình, nhiều kiến giải, luận điểm khoa học đã được vận dụng vào thực tiễn và thu được kết quả tốt. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu trên đều xuất phát từ góc độ trong nước của mình, chứ không phải từ góc độ Luật so sánh, phạm vi nghiên cứu bị hạn chế, về giải pháp của các vấn đề khác cũng bị hạn chế, cho nên những công trình này chưa giải quyết một cách triệt để, toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động của điều tra. Chính vì vậy, việc lựa chọn đề tài như đã đề cập rõ ràng có tính thời sự cấp bách.

Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của sự so sánh về điều tra trong Luật tố tụng hình sự giữa Trung Quốc và Việt Nam là thông qua nghiên cứu và so sánh để tìm ra những nét tương đồng và khác biệt điển hình giữa chúng nhằm góp phần tạo thuận lợi cho sự tương thích và hoàn thiện pháp luật về điều tra trong tố tụng hình sự của Trung Quốc trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm lập pháp và thực tiễn tố tụng hình sự của Việt Nam.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Đề tài này tập trung so sánh nghiên cứu chế định điều tra giữa Trung Quốc và Việt Nam. Theo đó, đề tài tập trung nghiên cứu so sánh một số vấn đề trong chế định này như: nhiệm vụ, quyền hạn điều tra của các cơ quan có thẩm quyền điều tra trong những cơ quan tư pháp, những hành vi điều tra, cơ chế kiểm sát các biện pháp cưỡng chế, quyền lợi và địa vị của người bào chữa; v.v… cũng như đánh giá, phân tích các nội dung trong chế định điều tra của hai nước; tổng kết những tác động tích cực và ảnh hưởng tiêu cực của chế định điều tra, từ đó chỉ ra những khuyết điểm và ưu điểm của các quy định về giai đoạn điều tra ở hai nước. Trên cơ sở này, luận án này sẽ lấy một số kinh nghiệm lập pháp tố tụng hình sự của Việt Nam phù hợp làm mẫu cho việc cải cách và hoàn thiện trình tự điều tra trong Luật tố tụng hình sự của Trung Quốc.

3.3. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài với tên gọi là ” Nghiên cứu so sánh về trình tự điều tra giữa Luật tố tụng hình sự của Trung Quốc và Việt Nam ” nhưng có phạm vi nghiên cứu khá rộng. Nếu ở Trung Quốc, chúng tôi sử dụng cụm từ “trình tự” đối ứng cụm từ tiếng Trung thì là “程序” [26, tr. 95], trong trường hợp tiếng Trung có nghĩa là “Đối với việc tiến hành một hoạt động hoặc quá trình thực hiện” [49, tr. 94], giống từ “Procedure” trong tiếng Anh; “程序” trong luật tố tụng thì giống từ “Proceeding” trong tiếng Anh, có thể được giải thích là thủ tục và quá trình do các cơ quan tư pháp và các bên tham gia vụ án với những người tham gia khác cùng làm những việc để giải quyết vụ án, cũng như là các mối quan hệ pháp lý giữa các chủ thể tố tụng [50, tr. 3].

Cho nên, “trình tự” trong Luật tố tụng hình sự Trung Quốc bao gồm hai nghĩa: Thứ nhất, giai đoạn các hoạt động chương trình và các quá trình; hai là, sắp xếp mối quan hệ, phản ánh mối quan hệ giữa các chủ thể tố tụng. Như vậy, “trình tự điều tra” thì bao gồm những hoạt động và quá trình điều tra, bên cạnh có mối quan hệ giữa các chủ thể tố tụng trong giai đoạn điều tra. Với những cơ sở nêu trên, phạm vi nghiên cứu của luận án này được xác định là so sánh chế định điều tra giữa Trung Quốc và Việt Nam, gồm có những vấn đề như: hệ thống tổ chức và cơ chế lãnh đạo của tổ chức Cơ quan điều tra, nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan điều tra trong Luật tố tụng hình sự, thủ tục điều tra, các biện pháp điều tra, cơ chế kiểm sát điều tra, những biện pháp ngăn chặn, vai trò của người bào chữa trong giai đoạn điều tra; v.v…

Ngoài ra, sau khi so sánh chế định điều tra của hai nước, luận án còn đề ra các ý kiến để tiếp tục hoàn thiện chế định điều tra của Trung Quốc theo quan điểm chung của Luật so sánh (Luật so sánh là môn khoa học nghiên cứu và so sánh các hệ thống pháp luật các nước, nhằm tìm ra những nét tương đồng và khác biệt điển hình giữa chúng, trên cơ sở góp phần tạo thuận lợi cho sự tương thích và hoàn thiện của hệ thống pháp luật quốc gia so với hệ thống pháp luật các nước và pháp luật quốc tế, từ đó góp phần hội nhập quốc tế trong lĩnh vực pháp luật).

Để thực hiện đề tài này, tác giả luận án chủ yếu sử dụng phương pháp so sánh là chủ đạo. Theo phân loại cách thức so sánh dựa trên quy mô so sánh thì nội dung luận án này thuộc cách thức so sánh vi mô, nó là cách thức so sánh một cách cụ thể, trực tiếp một quy phạm pháp luật, một chế định pháp luật của một hệ thống pháp luật với một quy phạm pháp luật, một chế định pháp luật tương ứng của một hệ thống pháp luật khác. Đồng thời, ngoài sử dụng phương pháp so sánh, các phương pháp khác như: quy nạp và phân tích, tổng hợp cũng được ứng dụng trong đề tài này, có nghĩa dựa trên cơ sở thu thập, thống kê, tổng hợp, đối chiếu tư liệu, các công trình khoa học của các nhà khoa học – luật gia hai nước để phân tích các tri thức khoa học Luật tố tụng hình sự để rút ra kết luận khái quát chung và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án

5.1. Ý nghĩa khoa học

5.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận án góp phần so sánh để phát hiện những điểm tương đồng và khác biệt của điều tra trong Luật tố tụng hình sự của hai nước. Qua nghiên cứu, chúng tôi cho rằng, những năm gần đây, hệ thống pháp luật của Việt Nam đã ghi nhận ở một mức độ nhất định về mặt kỹ thuật lập pháp và sự hợp lý trong việc tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều tra, các chế định bổ trợ trong giai đoạn điều tra để nâng cao việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, ví dụ trong giai đoạn điều tra đã thiết lập chế định bào chữa, cho luật sư có mặt trong điều tra, cấm hỏi cung ban đêm, thiết lập sự kiểm tra, giám sát hoạt động điều tra, để hướng dẫn điều tra của Viện kiểm sát; v.v… những quy định tiến bộ trong Luật tố tụng hình sự và bài học kinh nghiệm của Việt Nam chắc chắn sẽ làm Trung Quốc hiểu rõ hơn những thách thức và phương hướng về cải cách hệ thống pháp luật tố tụng hình sự của mình, có thể cung cấp những tư liệu quý báu và cách thức giải quyết vấn đề trình tự điều tra cho Trung Quốc tiếp tục đẩy mạnh cải cách điều tra hình sự.

Chương 1: Những vấn đề lý luận về điều tra và so sánh về điều tra trong Luật tố tụng hình sự Trung Quốc và Việt Nam.

Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về điều tra trong Luật tố tụng hình sự Trung Quốc trên cơ sở tiếp thu kinh nghiệm của Việt Nam.

Ý Nghĩa Của Việc Nghiên Cứu, Học Tập Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học

Về mặt lý luận: Việc nghiên cứu, học tập, vận dụng và phát triển lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin là phải chú ý cả ba bộ phận hợp thành của nó. Nếu không chú ý nghiên cứu, học tập, vận dụng, phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học sẽ làm cho triết học, kinh tế chính trị học Mác-Lênin dễ chệch hướng chính trị – xã hội, trước hết và chủ yếu là chệch hướng bản chất, mục tiêu là xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, giải phóng hoàn toàn xã hội và con người khỏi các chế độ tư hữu, áp bức, bất công, chiến tranh, nghèo nàn lạc hậu và mọi tai họa xã hội khác… mà thực tế lịch sử nhân loại đã từng chứng kiến.

Nghiên cứu, học tập chủ nghĩa xã hội khoa học còn có ý nghĩa lý luận là: trang bị những nhận thức chính trị – xã hội (như đối tượng, chức năng, nhiệm vụ và phương pháp của chủ nghĩa xã hội khoa học đã nêu trên) cho đảng cộng sản, nhà nước và nhân dân lao động trong quá trình bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội… Vì thế, các nhà kinh điển Mác-Lênin có lý khi xác định rằng, chủ nghĩa xã hội khoa học là vũ khí lý luận của giai cấp công nhân hiện đại và đảng của nó để thực hiện quá trình giải phóng nhân loại và giải phóng bản thân mình. Cũng như triết học và kinh tế chính trị học Mác- Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học không chỉ giải thích thế giới mà căn bản là ở chỗ cải tạo thế giới (cả tự nhiên, xã hội và bản thân con người) theo hướng tiến bộ, văn minh.

Đội ngũ trí thức và thế hệ trẻ nước ta hiện nay là những lực lượng xã hội có trí tuệ, có nhiều khả năng và tâm huyết trong quá trình cải tạo và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nếu chỉ thuần tuý chú trọng về khoa học và công nghệ, phi chính trị, hoặc mơ hồ về chính trị và vi phạm pháp luật, họ càng không thể góp tài góp sức xây dựng Tổ quốc của mình.

Nghiên cứu, học tập chủ nghĩa xã hội khoa học chính là việc được trang bị trực tiếp nhất về ý thức chính trị – xã hội, lập trường tư tưởng chính trị và bản lĩnh cho mỗi cán bộ, đảng viên và mọi công dân Việt Nam góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng đề ra.

Nghiên cứu, học tập chủ nghĩa xã hội khoa học cũng làm cho ta có căn cứ nhận thức khoa học để luôn cảnh giác, phân tích đúng và đấu tranh chống lại những nhận thức sai lệch, những tuyên truyền chống phá của chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động đối với Đảng ta, Nhà nước, chế độ ta; chống chủ nghĩa xã hội, đi ngược lại xu thế và lợi ích của nhân dân, dân tộc và nhân loại tiến bộ.

Về mặt thực tiễn, bất kỳ một lý thuyết khoa học nào, đặc biệt là các khoa học xã hội, bao giờ cũng có khoảng cách nhất định so với thực tiễn, nhất là những dự báo khoa học có tính quy luật. Nghiên cứu, học tập chủ nghĩa xã hội khoa học lại càng thấy rõ những khoảng cách đó, bởi vì chủ nghĩa xã hội trên thực tế, chưa có nước nào xây dựng hoàn chỉnh. Sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, cùng với thoái trào của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, lòng tin vào chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội khoa học, chủ nghĩa Mác-Lênin của nhiều người có giảm sút.

Đó là một thực tế dễ hiểu. Vì thế, nghiên cứu, giảng dạy chủ nghĩa xã hội khoa học càng khó khăn trong tình hình hiện nay và cũng có ý nghĩa chính trị cấp bách. Chỉ có bình tĩnh và sáng suốt, kiên định và chủ động sáng tạo tìm ra những nguyên nhân cơ bản và bản chất của những sai lầm, khuyết điểm, khủng hoảng, đổ vỡ và của những thành tựu to lớn trước đây cũng như của những thành quả đổi mới, cải cách ở các nước xã hội chủ nghĩa, chúng ta mới có thể đi tới kết luận chuẩn xác rằng: không phải do chủ nghĩa xã hội – một xu thế xã hội hoá mọi mặt của nhân loại; cũng không phải do chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học… làm các nước xã hội chủ nghĩa khủng hoảng. Trái lại, chính là do các nước xã hội chủ nghĩa đã nhận thức và hành động trên nhiều vấn đề trái với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác-Lênin… đã giáo điều, chủ quan duy ý chí, bảo thủ, kể cả việc đố kỵ, xem nhẹ những thành quả chung của nhân loại, trong đó có chủ nghĩa tư bản; đồng thời do xuất hiện chủ nghĩa cơ hội – phản bội trong một số đảng cộng sản và sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc thực hiện âm mưu diễn biến hoà bình đã làm cho chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào thoái trào. Thấy rõ thực chất những vấn đề đó một cách khách quan, khoa học; đồng thời được minh chứng bởi thành tựu rực rỡ của sự nghiệp đổi mới, cải cách của các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam, chúng ta càng củng cố bản lĩnh kiên định, tự tin tiếp tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn.

Do đó, việc nghiên cứu học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, lý luận chính trị – xã hội nói riêng và các khoa học khác… càng là vấn đề thực tiễn cơ bản và cấp thiết. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng, chống mọi biểu hiện cơ hội chủ nghĩa, dao động, thoái hoá, biến chất trong đảng và cả xã hội, giáo dục lý luận chính trị – xã hội một cách cơ bảnkhoa học tức là ta tiến hành củng cố niềm tin thật sự đối với chủ nghĩa xã hội… cho cán bộ, học sinh, sinh viên, thanh thiếu niên và nhân dân. Tất nhiên đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và mở rộng hợp tác quốc tế; tiến hành hội nhập quốc tế, toàn cầu hoá về kinh tế; xây dựng “kinh tế tri thức”, thực hiện cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa… đang là những vận hội lớn, đồng thời cũng có những thách thức lớn đối với nhân dân ta, dân tộc ta. Đó cũng là trách nhiệm lịch sử rất nặng nề và vẻ vang của cả thế hệ trẻ đối với sự nghiệp xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa trên đất nước ta.