Trong Mândukya-Upanisad, chữ OM được phân tích thành những yếu tố phát thanh, theo đó thì chữ O được coi như một tổ hợp của hai chữ A và U; như vậy, chúng ta hiện có 3 yếu tố là : A, U, M . OM là biểu thức cao nhất của tâm thức thì 3 yếu tố ấy được xem như 3 trình độ của tâm thức, chứng được hiểu như sau : ‘A’ được xem như tâm thức tỉnh; ‘U’ được xem như thâm thức mơ màng; ‘M’ được xem như tâm thức ngủ say; còn OM đã là toàn bộ, thì đó là tình trạng của tâm thức VŨ TRỤ , hay tình trnạg thứ tư, nó bao gồm tất cả và vượt qua mọi biểu thức. Đó là tâm thức của chiều thứ tư (không phải chiều không gian, mà nó là cái KHÔNG, VÔ KÝ).
Các thành ngữ ‘tâm thức tỉnh’, ‘tâm thức mơ màng’ và ‘ tâm thức ngủ say’ tất nhiên không phaỉ để ta hiểu theo nghĩa của từng chữ , mà đúng hơn thì nên hiểu rằng : thành ngữ thứ nhất chỉ về tâm thức chử quan đối với thế giới ngoịa lai, nghĩa là trạng thái bình thường của chúng ta; thứ hia là tâm thức của thế giới nội tại, tức là tư tưởng, tình cảm của chúng ta, các điều ước nguyện và ưa thích của chúng ta, cái mà chúng ta gọi chung là ý thức tri giác vfa thứ ba là tâm thức dựa và tự nó, không phân cách thành chủ thể và đối tượng, mà lại thuần nhất không phân biệt, trong nhà Phật, nó được gọi là tình trạng rỗng không, chẳng phân định phẩm chất gì. Ngược lại, thành ngữ thứ tư và tình trạng cùng cực thì được mô tả theo nhiều cách, tuỳ theo quan niệm cho nó là mục đích hay lý tưởng cao cả nhất. Theo một số thì đó là tình trạng của Tự Thể thanh khiết, hay là Tự Thực Thể; theo một số khác thì đó là sự vươn lên của một Thực Thể cao hơn hay tình trạng vô ngã Brahman phổ quát nhất; theo một số khác nữa thì đó là sự tự do và độc lập vô biên.v.v… Tuy nhiên, đối với tất cả thì đó là tình trạng bất diệt, không klhổ đau, không sanh, không già và càng đi gần đến kỷ nguyên Phật Giáo thì chúng ta càng thấy rõ ràng là tình trạng ấy không thể nào đạt được nếu ta không lìa bỏ tất cả những gì tiêu biểu cho các TA, hay cái NGÃ tự xưng.
Như vây, chữ OM được kết hợp với sự Giải Thoát hoặc là được xem như phương tiện để thực hiện sự giải thoát, hoặc là được xem như biểu tượng của sự Thực hiện ấy. Mặc dù có nhiều lối tìm cầu hay xác định sự giải thoát, chữ OM không bao giờ có tính loại trừ của một trường triết học riêng biệt mà nó vẫn trung thành với tính cách biểu tượng của nó là diễn tả cái gì bở bên kia DANH, SẮC, ở ngoài các giới hạn và phân loại, ngoài các định nghĩa và giải thích : kinh nghiệm về vô hạn , chính là ở nới chúng ta; nó có thể được cảm nhận như một mục đíhc xâu sa nửa vời, hoặc như một tiên cảm giản dị; một khát vọng hoặc có thể được nhận biết như một thực tại đang lớn dần hay thực hiện được nhờ sự huỷ diệt tất cả các giới hạn và chiến thắng được sự bức bách của các khuynh hướng xấu. Có bao nhiêu chiều là có bấy nhiêu cái vô hạn, có bao nhiêu tinh khí là có bếy nhiêu hinhf thức giải thoát, nhưng tất cả đều cùng mang một dấu hiệu. Những ai đau khổ về tình trạng nô lệ và giới hạn thì cảm nhận sự giải thoát như một sự nở nang vô hạn. Những ai đau khổ trong bóng tối thì cảm thấy sự giải thoát trong ánh sáng vô biên. Những ai rên xiết vì chết chóc nặng nề, kiếp sông phù du thì nhận thấy sự giải thoát là trường vô tận. Những ai không được nghỉ ngơi thì sưe đượng thụ hưởng sụ yên vui và hoà hợp trong cái vô cùng.
Tất cả các lối diễn đạt ấy, không mất cái đặc tính riêng của mỗi một, mà vẫn mang chung một hình dung từ là : VÔ HẠN , điều này rất quan trọng : nó chứng tỏ rằng cả đến các sự thực hiện cao cả nhất cũng có thể còn giữ được nột đạo vị cá biệt : đạo vị của thực thể gốc rễ, nó không làm cho giá trị phổ quát mà nó chịu ảnh hưởng. Ngay nơi các chóp đỉnh cùng cực của tâm thức cũng không có đồng nhất hya không đồng nhất, theo ý nghĩa riêng tuyệt đối . Giũă chúng còn mãi mãi một mối quan hệ sâu sắc, không phải là một sự bình đẳng không có khí lực; nhưng vì không bao giờ có thể là kết quả của một sự tăng trưởng sống động , nên mối quan hệ kia chỉ có thể là sản phẩm của một cơ cấu không có sự sống.
Như vậy, kinh nghiệm của sự vô hạn đã hiện thành vũ trụ luận trong kinh Phệ đà xa xưa nhất, nghi thức thần diệu trong các Bà la môn luận; Nhất nguyên luận duy tâm của Upanisad; tư tưỏng sinh vật học trong Kỳ Na Giáo; tư tưỏng thâm diệu về tâm lý trong thiền định của Phậ giáo siêu hình học trong triết lý Vệ đà; ái tình Tôn Giáo thần bí (Bhakli) trong Vi Nữu giáo (Vishnouism); thâm thuật khổ hạn thắng đòi trong Shi-va-giáo (Shivaism); có tiềm thế mẹ sáng tạo của vũ trị trong Phù chú giáo ở ấn độ và cuối cùng, trong phép dùng Bùa, Chú của Phật giáo, có sức biến đổi các lực và các hiện tượng thuộc tâm lý vũ trụ bằng cách dùng ánh sáng trí tuệ bát nhã thâm nhập chúng nó.
Giống như một tấm gương chiếu mọ hình tướng và màu sắc mà không thay đổi bản tính riêng của nó, chữ M cũng vậy, nó phản chiếu các tình tiết khác nhau của mọi tinh khí, hoặc khoác các hình thái của mọi lý tưởng cao siêu mà không tự giới hạn ở tình tiết này hay hình thái nọ. Bản tính của nó là vô hạn, không gì nữa cả. Nếu cái âm thiêng liêng ấy được xác định bằng một ý nghãi nào khác, dễ hiểu hơn, nếu nó xoay nình hướng về một ý tưởng độc hữu, chỉ một thôi , mà không giữ được trọn cái phẩm chất phi lý và không sờ mó được của bản thể nó thì nó không bao giờ tượng trưng được cho một tình trạng tinh thần siêu thức, trong đó mọi khăt svọng cá nhân đều tìm thấy sự tổng hợp và sự thực hiện của nó.