Đề Xuất 6/2023 # Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học Là Gì # Top 13 Like | Shareheartbeat.com

Đề Xuất 6/2023 # Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học Là Gì # Top 13 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học Là Gì mới nhất trên website Shareheartbeat.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Việc làm Giáo dục – Đào tạo

1. Đặc điểm của nghiên cứu khoa học

1.1. Nghiên cứu khoa học là gì?

Nghiên cứu khoa học là gì?

Nghiên cứu khoa học hay tiếng Anh gọi là Scientific Research là quá trình áp dụng các phương pháp nghiên cứu từ những người nghiên cứu có trình độ chuyên môn nhằm tìm ra kiến thức mới, những ứng dụng kỹ thuật có hiệu quả và những mô hình mới có ý nghĩa với thực tiễn. Hoạt động trong nghiên cứu khoa học là đi tìm hiểu, quan sát, thí nghiệm và đôi khi phải trải nghiệm thử,… dựa trên cơ sở những già đã thu thập được về số liệu, tài liệu,…

Từ đó có thể rút ra khái niệm cụ thể của nghiên cứu khoa học chính là việc thực hiện tổng hợp hợp một chuỗi các phương pháp để nghiên cứu tìm ra quy luật mới, khái niệm mới, hiện tượng mới,… đã được chứng minh trong quá trình nghiên cứu thông qua khảo sát thực tế hay qua những số liệu, tài liệu đã được thu thập.

Việc tiến hành nghiên cứu những công trình khoa học lớn cần nhiều thời gian công sức về cả người và của nhưng một khi đã thành công, kết quả từ quá trình nghiên cứu này rất có ý nghĩa trong thực tiễn phục vụ nhu cầu cho chính con người hay còn là yếu tố tác động chính tới sự phát triển của xã hội.

1.2. Nghiên cứu khoa học cần tới con người sở hữu tố chất nào?

Nằm trong vấn đề cần nghiên cứu – công việc cần tới sự sáng tạo và có hệ thống được thực hiện để tăng kho kiến thức, bao gồm kiến thức về con người, văn hóa – xã hội và việc sử dụng kho kiến thức này để đưa ra ứng dụng mới. Vì vậy những người đạt trình độ nghiên cứu cần có:

– Kiến thức về lĩnh vực nghiên cứu: Đây sẽ là yêu cầu trước tiên để có đạt điều kiện tham gia nghiên cứu khoa học. Chỉ khi am hiểu về lĩnh vực trong đề tài nghiên cứu các hoạt động đem tới kết quả mới đi đúng hướng.

– Có tình thần đam mê, nhiệt huyết, thích khám phá tìm kiếm cái mới trong cuộc sống

– Nhận định về khoa học khách quan và trung thực nhất

– Có kỹ năng làm việc tập thể hoặc độc lập có phương pháp cụ thể: Nghiên cứu khoa học cần nghiên cứu rất nhiều vấn đề xung quanh một đề tài chính vì vậy hoạt động này thường sẽ được triển khai theo nhóm hoặc nếu có năng lực cao vẫn có thể làm việc cá nhân. Tuy nhiên dù là làm cá nhân hay làm theo nhóm thì công việc nghiên cứu vẫn cần được triển khai theo đúng phương pháp.

– Liên tục rèn luyện năng lực nghiên cứu từ lúc là sinh viên: Nhằm tạo điều kiện cho sinh viên tiếp cận với nghiên cứu khoa học nhiều trường đại học đã phát động cuộc thi nghiên cứu khoa học với đề tài chuyên môn tự chọn thu hút sự tham gia của không ít nhóm sinh viên. Họ đều là những người có niềm đam mê nghiên cứu, tinh thần ham học hỏi, thích khám phá những điều mới mẻ. Đặc biệt với nhiệt huyết của tuổi trẻ, đối tượng nghiên cứu này luôn hy vọng đem đến những điều mới mẻ chứng minh năng lực sau quá trình nghiên cứu với nhà trường tạo tiền đề cho nhiều công trình nghiên cứu lớn sau này cống hiến cho nền khoa học nước nhà.

1.3. Ai là người nghiên cứu khoa học?

Một nhóm người nghiên cứu khoa học

– Các chuyên gia nghiên cứu ở mọi lĩnh vực làm việc trong Viện, Trung tâm nghiên cứu

– Các giáo sư, giảng viên ở các trường Đại học – Cao đẳng, Trung học Chuyên nghiệp

– Các chuyên gia trong cơ quan quản lý Nhà nước

– Các Công ty, Viện nghiên cứu tư nhân

– Sinh viên đam mê nghiên cứu khoa học trong các trường Đại học có tổ chức nghiên cứu hoặc tham gia nhóm nghiên cứu bên ngoài trường được tổ chức bởi một trung tâm,…

1.4. Các hình thức tổ chức nghiên cứu

– Đề tài nghiên cứu: Là một hình thức tổ chức nghiên cứu khoa học chứa đựng nhiệm vụ nghiên cứu cho một cá nhân hay một nhóm người thực hiện. Đây mà một nghiên cứu có mục tiêu cụ thể, phương pháp rõ ràng nội dung hướng tới đáp ứng yêu cầu của thực tiễn sản xuất hoặc dùng kết quả để xây dựng chính sách, là cơ sở nghiên cứu cho các đề tài tiếp theo.

– Dự án khoa học nghiên cứu: Thường có vấn đề nghiên cứu thuộc lĩnh vực kinh tế, nhằm mục đích ứng dụng tăng hiệu quả kinh tế – xã hội. Trước tiên kết quả sẽ được sản xuất thử ở quy mô nhỏ nhằm hoàn thiện công nghệ mới, sản phẩm mới trước khi đưa vào sản xuất với quy mô lớn và đời sống

– Chương trình khoa học nghiên cứu: Là tập hợp các đề tài/ dự án có cùng mục đích nghiên cứu cho ra kết quả áp dụng cùng cho một vấn đề. Các dự án/ đề tài được quản lý một các phối hợp nhằm hướng tới một số mục tiêu chung đã định ra từ trước.

Việc làm Công chức – Viên chức

2. Môn phương pháp nghiên cứu khoa học là gì?

2.1. Khái niệm phương pháp nghiên cứu khoa học

Phương pháp nghiên cứu khoa học là gì?

Phương pháp nghiên cứu khoa học là những công cụ hỗ trợ quá trình nghiên cứu khoa học giúp thu thập số liệu, dữ liệu, thông tin, kiến thức để phục vụ cho việc tìm ra điều mới mẻ,… Các phương pháp nghiên cứu khoa học mang tính hệ thống tức là phương pháp này phải đi liền với phương pháp khác theo một chuỗi nhất định đảm bảo tính thống nhất và khá dễ sử dụng.

2.2. Các phương pháp nghiên cứu khoa học là gì?

Các phương pháp sử dụng trong nghiên cứu khoa học

Một đề tài, dự án, chương trình hay một đề án được hoàn thành với rất nhiều các phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau được phân thành:

– Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Là các phương pháp áp dụng trực tiếp vào vấn đề nghiên cứu trong thực tế để hiểu rõ bản chất và các quy luật của những vấn đề đó.

+ Phương pháp quan sát khoa học: Có hai loại quan sát khoa học là quan sát trực tiếp và gián tiếp hoặc phân thành quan sát theo thời gian và không gian. Đối với những nghiên cứu quy mô lớn nên chia thời gian nghiên cứu theo từng giai đoạn để thu thập được nguồn thông tin chính xác nhất, xác thực nhất với vấn đề nghiên cứu.

+ Phương pháp thực nghiệm khoa học: Áp dụng đối với một số vấn đề nghiên cứu cần tác động vào đối tượng để điều hướng chúng phát triển hay hoạt động theo mục tiêu dự kiến đã đặt ra

+ Phương pháp phân tích tổng kết kinh nghiệm: Là phương pháp nghiên cứu và xem xét lại những thành quả thực tiễn trong quá khứ để rút ra kết luận bổ ích cho thực tiễn và khoa học.

+ Phương pháp chuyên gia: Là phương pháp sử dụng trí tuệ của đội ngũ chuyên gia có trình độ phù hợp với chuyên môn nghiên cứu sâu rộng nhằm thu thập thông tin khoa học, ghi chép các nhận định đánh giá một sản phẩm khoa học làm cơ sở để bổ sung, chỉnh sửa cho vấn đề nghiên cứu. Với mỗi lĩnh vực cần nghiên cứu bạn phải chọn đúng chuyên gia có năng lực chuyên môn đó, có phẩm chất của người nghiên cứu khoa học.

– Các phương nghiên cứu lý thuyết: Trên cơ sở dữ liệu, thông tin có sẵn tại các văn bản, tài liệu bằng các thao tác tư duy logic để rút ra kết luận khoa học cần thiết cho vấn đề nghiên cứu thông qua các phương pháp sau:

+ Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết: Phân tích thành từng bộ phận các tài liệu đề tìm hiểu sâu sắc về đối tượng rồi tổng hợp những thông tin đã được phân tích thành một hệ thống lý thuyết mới đầy đủ và bám sát hơn vào đối tượng nghiên cứu.

+ Phương pháp giả thuyết: Trước tiên nghiên cứu hay đưa ra quan điểm, giả thuyết về đặc điểm định nghĩa của vấn đề rồi sau đó đi chứng minh điều mình đưa ra là đúng, có cơ sở khoa học để minh chứng

+ Phương pháp lịch sử: Là phương pháp áp dụng để đi tìm nguồn gốc phát sinh, quá trình phát triển, hình thành đối tượng nghiên cứu dựa trên tài liệu đã được ghi chép rồi từ đó rút ra mấu chốt

Phương Pháp Luận Và Vai Trò Của Phương Pháp Triết Học Trong Nghiên Cứu Khoa Học

Có thể nói chưa bao giờ vấn đề phương pháp luận lại được bàn đến nhiều như trong thời đại của chúng ta, nhất là từ khi bắt đầu cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và ngày nay là cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Trong lịch sử khoa học, đã có những thời kỳ vấn đề phương pháp và phương pháp luận được đặc biệt chú trọng và có nhu cầu lớn vì khoa học gặp khó khăn, trở ngại không tiến lên được. Ngày nay, người ta quan tâm đến vấn đề phương pháp và phương pháp luận không phải vì khoa học trì trệ mà trái lại khoa học đang phát triển với một tốc độ nhanh chóng.

Đối với người làm triết học nói riêng và những người làm công tác nghiên cứu khoa học nói chung thì việc nghiên cứu vấn đề phương pháp luận là một trong những nhiệm vụ quan trọng.

Nghiên cứu về vấn đề phương pháp luận trước hết chúng ta cần hiểu phương pháp luận là gì? Cấu trúc của phương pháp luận như thế nào? Tại sao triết học nói chung và các nguyên lý nói riêng (nguyên lý thế giới quan) lại đóng được vai trò phương pháp luận?

Như vậy là cùng với sự phát triển của khoa học (nhất là những tình huống có vấn đề), người ta lại càng phải quan tâm đấn triết học nhiều hơn. Đặc biệt khoảng giữa thế kỷ 19 – khi khoa học chưa có những phát minh mang tính thời đại cũng có nghĩa là lúc đó khoa học tự nhiên gặp khủng hoảng và người ta đã giải thích nó theo những cách khác nhau, cuối cùng là dẫn đến cách giải thích duy tâm về những thành tựu mới đó. Đây chính là lúc triết học thể hiện sâu sắc vai trò định hướng của mình.

Lịch sử cho thấy, một quan niệm về phương pháp luận được thừa nhận là đúng đắn khi quan niệm đó cho rằng: Phương pháp luận là hệ thống lý luận về phương pháp nghiên cứu, phương pháp nhận thức và cải tạo hiện thực. Tất cả những lý luận và nguyên lý nào có tác dụng hướng dẫn, gợi mở, chỉ đạo đều là những lý luận và nguyên lý có ý nghĩa phương pháp luận. Mọi nguyên lý thế giới quan đều có tác dụng ấy, chúng hợp thành nội dung của phương pháp luận.

Trên thực tế, chúng ta thấy có nhiều loại thế giới quan và triết học là thế giới quan, mọi triết học đều là thế giới quan. Dĩ nhiên, đó có thể là thế giới quan khoa học hoặc không khoa học. Song không phải mọi thế giới quan đều là triết học. Triết học là khoa học về các quy luật chung nhất của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy con người. Bởi vậy, thế giới quan triết học macxit là sự tổng hợp lý luận của những quan điểm chung nhất về tự nhiên, xã hội, về con người và về nhận thức.

Bất cứ một ngành khoa học nào cũng có phương pháp của họ. Điều đó có nghĩa phương pháp luận phải có cấu trúc chung và chúng ta có thể nhìn nhận cấu trúc chỉnh thể ấy từ 3 bộ phận:

– Những nguyên lý thế giới quan: Đây là bộ phận hết sức quan trọng. Tuy nhiên, không phải mọi nguyên lý thế giới quan đều được đưa đồng đều vào phương pháp luận của các khoa học mà chỉ sử dụng những nguyên lý thích hợp để có thể thực hiện được nhiệm vụ chỉ đạo, hướng dẫn, gợi mở tuỳ theo tính chất của từng khoa học hoặc từng nhóm khoa học.

– Lý luận về một hệ thống các phương pháp: Điều này có nghĩa là nói đến lý luận về một hay nhiều phương pháp có thể dùng chung cho nhiều khoa học. Vấn đề ở đây là phải làm rõ nội dung của phương pháp đó là gì? quan hệ giữa các phương pháp? phạm vi, khả năng và nguyên tắc ứng dụng của các phương pháp?

– Lý luận về một phương pháp cụ thể nào đó sẽ được sử dụng ở bộ môn này hay bộ môn khác. Nói cách khác thì đó chính là phương pháp nghiên cứu đặc thù của một môn khoa học (những nguyên lý và lý thuyết của bản thân khoa học đó hay của các khoa học khác có vai trò gợi mở, hướng dẫn, chỉ đạo mà khoa học này cần sử dụng hoặc có thể sử dụng).

Với một cơ cấu như vậy, phương pháp luận của các khoa học cụ thể sẽ bao gồm được cả cái chung và cả cái riêng, bao gồm được các nguyên lý và phương pháp phổ biến cũng như các nguyên lý và phương pháp của từng ngành khoa học hay của một nhóm khoa học; sẽ tránh được xu hướng tuyệt đối hoá một mặt nào đấy; sẽ tránh được quan điểm thực chứng muốn loại trừ triết học ra khỏi phương pháp luận của khoa học cụ thể.

Có thể nói, trong chỉnh thể phương pháp luận, phần chung nhất chúng ta thấy được là những nguyên lý thế giới quan. Vậy câu hỏi đặt ra là tại sao nguyên lý thế giới quan lại quan trọng như thế? Tại sao thế giới quan lại đóng được vai trò phương pháp luận? Trên thực tế, chúng ta cần khẳng định rằng: Trong những nguyên lý thế giới quan đã tổng kết, đúc kết sự hiểu biết chính xác, khoa học và đầy đủ về một đối tượng, về một sự vật, về một quá trình trong phạm vi cho đến thời điểm đó.

Sự hiểu biết của con người không phải là sự bất động, bất biến và chúng ta phải thừa nhận rằng các nguyên lý thế giới quan phản ánh những gì bản chất nhất, là những cái không thể thiếu được nhưng tất nhiên nó chưa phải là đầy đủ nhất. Và đây cũng chính là chỗ khác nhau cơ bản giữa quan điểm chủ nghĩa duy vật biện chứng với các quan điểm tuyệt đối hoá một tri thức nào đó. Thực tế là nhận thức của chúng ta không bao giờ có giới hạn, không đi tới cái giới hạn cuối cùng mà chỉ là dần tới cái giới hạn, cái tuyệt đối mà thôi.

Tóm lại, mọi nguyên lý thế giới quan sở dĩ đóng được vai trò phương pháp luận là nhờ trong những nguyên lý đó đã tổng kết, đã đúc kết lại những gì đúng nhất, chính xác nhất, khoa học nhất về các sự vật, đối tượng, quá trình diễn ra trong thế giới xung quanh ta. Chúng ta có thể dẫn ra đây những nguyên lý thể giới quan đã cho thấy được vai trò phương pháp luận của nó:

– Trong tác phẩm “Chống Đuyrinh”, Ăngghen đã khẳng định: Thế giới thống nhất ở tính vật chất của nó chứ không phải ở sự tồn tại của nó. Đây là một nguyên lý thế giới quan đóng vai trò định hướng, gợi mở trong khoa học bởi lẽ khi khẳng định thế giới thống nhất ở tính vật chất của nó, điều đó có nghĩa đã định hướng, gợi mở cho người ta phải đi tìm các dạng vật chất khác nhau, đi tìm sự biểu hiện đa dạng của vật chất (từ vật chất vô cơ, vật chất hữu cơ đến các bậc tổ chức từ thấp đến cao của vật chất…).

– Nguyên lý: Điện tử cũng vô cùng tận như nguyên tử, tự nhiên là vô tận… (Theo Lê Nin). Trước đó Ăngghen cũng đã từng khẳng định: Không thể coi nguyên tử là phần tử vật chất nhỏ nhất… Nguyên lý này đã gợi mở cho các ngành khoa học phát triển, đặc biệt là vật lý học và sinh học. Đó là một nguyên lý thế giới quan đúng đắn. Nó vĩ đại ở chỗ nhờ đó mà người ta phát hiện ra rằng: thế giới không chỉ vô tận về phía vĩ mô mà còn vô tận về phía vi mô và siêu vi mô.

– Triết học không phải là khoa học của mọi khoa học như cách hiểu của chúng ta trước đây và chúng ta cũng không nên tuyệt đối hoá vai trò của triết học. Các loại triết học khác nhau đều có thể đóng được vai trò phương pháp luận. Chỉ có điều, phương pháp luận đó đúng hay sai, dẫn người ta đi đến phát minh hay bế tắc. Hay nói một cách khác, mọi nguyên lý triết học dù khoa học hay không khoa học đều có tác dụng định hướng, gợi mở; chỉ có điều nó định hướng đúng hay sai, chỉ cho người ta đi đúng hoặc đi sai đường. Điều đó có nghĩa việc chúng ta xác định đúng vai trò của triết học trong điều kiện thế giới đương đại, trong điều kiện phát triển khoa học kỹ thuật như hiện nay là một việc làm hết sức cần thiết.

– Khi nói tới phương pháp luận, chúng ta không thể đồng nhất chủ nghĩa duy vật biện chứng với phương pháp luận của khoa học tự nhiên và chủ nghĩa duy vật lịch sử với phương pháp luận của khoa học xã hội. Chúng ta phải nhớ rằng triết học macxit là một khối thép duy nhất đúc thành…, không nên quá đối lập cái duy vật với cái lịch sử. Mac và Ăngghen đã làm nên một cuộc cách mạng trong triết học – đó là biến chủ nghĩa duy vật thành chủ nghĩa duy vật biện chứng, biến phép biện chứng thành phép biện chứng duy vật… và chúng ta phải hiểu nó trong tính chỉnh thể vốn có.

– Theo quan niệm chung hiện nay về phương pháp luận thì có: Phương pháp luận riêng chỉ áp dụng cho một môn khoa học nhất định; phương pháp luận chung áp dụng cho một số bộ môn khoa học; phương pháp luận chung nhất áp dụng được cho tất cả các bộ môn khoa học. Phương pháp luận chung nhất, phổ biến nhất đó là triết học duy vật biện chứng. Sở dĩ triết học macxit đóng vai trò là phương pháp luận chung nhất là do các nguyên lý thế giới quan chính là sự đúc kết, tổng kết những gì là cơ bản nhất, sâu sắc nhất, khoa học nhất về tự nhiên, xã hội và tư duy.

Trong trình độ phương pháp luận, có phương pháp luận chung và phương pháp luận riêng nhưng không thể thiếu được nguyên lý chung nhất là nguyên lý thế giới quan. Điều đó cũng có nghĩa chúng ta phải xác định đúng vị thế, vị trí, vai trò của triết học để tránh quay trở lại triết học tự nhiên.

Nói tóm lại, phương pháp luận là hệ thống lý luận về phương pháp nghiên cứu, phương pháp nhận thức và cải tạo hiện thực; là hệ thống chặt chẽ các quan điểm, nguyên lý chỉ đạo việc tìm kiếm, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp. Tất cả những nguyên lý nào có tác dụng gợi mở, định hướng, chỉ đạo đều là những lý luận và nguyên lý có ý nghĩa phương pháp luận. Mặc dù vậy, triết học macxit với tư cách là phương pháp luận chung nhất và phổ biến không thể thay thế phương pháp luận của các khoa học cụ thể…

Đề Tài Nghiên Cứu Khoa Học Là Gì ?

 Đề tài nghiên cứu khoa học là gì?

Đề tài nghiên cứu khao học là một hoặc nhiều vấn đề khoa học có chứa những điều chưa biết (hoặc biết chưa đầy đủ) nhưng đã xuất hiện tiền đề và khả năng có thể biết được nhằm giải đáp các vấn đề đặt ra trong khoa học hoặc trong thực tiễn. Đề tài nghiên cứu khoa học được đặt ra do yêu cầu của lý luận hay thực tiễn và thoả mãn hai điều kiện:

Vấn đề đang chứa mâu thuẫn giữa cái đã biết với cái chưa biết.

Đã xuất hiện khả năng giải quyết mâu thuẫn đó.

Vấn đề khao học (còn gọi là vấn đề nghiên cứu) là câu hỏi được đặt ra khi người nghiên cứu đứng trước mâu thuẫn giữa tính hạn chế của tri thức khoa học hiện có với yêu cầu phát triển tri thức đó ở trình độ cao hơn. Câu hỏi này cần được trả lời, giải đáp trong nghiên cứu, vì vậy, còn gọi là câu hỏi nghiên cứu. Để nhận dạng đề tài nghiên cứu khoa học, người nghiên cứu trước hết phải xem xét những vấn đề khoa học (vẫn đề nghiên cứu) đặt ra. Có thể có ba trường hợp:

Có vấn đề để nghiên cứu, nghĩa là có nhu cầu giải đáp vấn đề nghiên cứu và như vậy hoạt động nghiên cứu được thực hiện.

Không có vấn hoặc không còn vấn đề. Trường hợp này không xuất hiện nhu cầu giải đáp, nghĩa là không có hoạt động nghiên cứu.

Giả – vấn đề: tưởng là có vấn đề, nhưng sau khi xem xét thì lại không có vấn đề hoặc có vấn đề khác. Phát hiện “giả – vấn đề” vừa dẫn đến tiết kiệm chi phí, vừa tránh được những hậu quả nặng nề cho hoạt động thực tiễn. – Đề tài nghiên cứu khao học thực chất là một câu hỏi – một bài toán đối diện những khó khăn trong lý luận và trong thực tiễn mà chưa ai trả lời được (hoặc trả lời nhưng chưa đầy đủ, chưa chính xác hoặc chưa tường minh), đòi hỏi người nghiên cứu phải giải đáp những điều chưa rõ, đem lại cái hoàn thiện hơn, tường minh hơn hay phát hiện ra cái mới phù hợp với quy luật khách quan, phù hợp với xu thế đi lên của sự phát triển. Nghiên cứu một đề tài khoa học thường bắt đầu từ phát hiện vấn đề khoa học và vấn đề nghiên cứu cần được trình bày dưới dạng một câu nghi vấn. – Cơ sở xuất phát để chon đề tài: – Chọn đề tài nghiên cứu khoa học cần xuất phát từ các căn cứ và yêu cầu sau: – Thế mạnh của người nghiên cứu: người nghiên cứu biết thế mạnh của mình về lĩnh vực, vấn đề nào đó để chọn đề tài tương ứng. – Nhu cầu thực tiễn: đề tài phải giải quyết được một trong những vấn đề mà thực tiễn đang đặt ra. – Phải có người hướng dẫn: có đủ khả năng, trình độ, tư liệu… + Đề tài tự chọn: người nghiên cứu cần tìm hiểu kỹ hiện trạng phát triển của lĩnh vực chuyên môn, tìm hiểu tình hình thực tế để xác định hướng nghiên cứu phù hợp. Việc lựa chọn đề tài cần xem xét và cân nhắc kỹ xem đề tài có ý nghĩa khoa học hay không? Có ý nghĩa thực tiễn không? Có cấp thiết phải nghiên cứu hay không? Có đủ điều kiện để đảm bảo cho việc hoàn thành đề tài hay không? Có phù hợp với sở thích và thế mạnh của mình hay không? + Mở đầu việc nghiên cứu khoa học, người nghiên cứu phải cân nhắc, chon lọc và xác định đề tài nghiên cứu. Đây là một việc làm trí tuệ vất vả, nhiều trắc trở nhưng mang tính chất quyết định đối với sự thành bại của toàn bộ quá trình nghiên cứu. + Đúng như W.A. Ashby đã nói: “Khi đã có thể phát biểu được vấn đề một cách tường minh và đầy đủ thì ta không còn ở xa lời giải nữa”.

Nhà vật lý học nổi tiếng Wemer Heisenberg cũng nhận xét: “…theo lẽ thường, khi vấn đề đặt ra một cách đúng đắn thì có nghĩa là nó đã được giải quyết quá một nửa rồi…”. Ví dụ: “ Bàn về tác dụng tương hỗ của silic điôxit với hợp chất Natri có chứa lưu huỳnh (Sunfat, Sunfit và muối Natri)”, “nghiên cứu vật liệu polimer dẫn (Smart window)”…

Trường hợp cần thiết phải nhấn mạnh trong đầu đề của công trình đặc điểm về phương pháp thì có thể kèm theo đầu đề một ghi chú. Ví dụ: “Tính chất co dãn của động mạch vành tim trong điều kiện tuần hoàn vòng quanh (nghiên cứu về giải phẫu – chức phận)”, “Cải tiến cách đánh giá thành quả học tập của sinh viên trường đại học (nghiên cứu cách ứng dụng công nghệ TEST)”…

Để làm cho đầu đề luận văn ngắn gọn nhưng lại có thể nhấn mạnh đặc điểm của công trình nghiên cứu, có thể đưa thêm các từ “nghiên cứu” hoặc “phương pháp” để làm tăng thêm độ chính xác của đầu đề. Ví dụ: “nghiên cứu điện hoá học…”, “nghiên cứu quá trình từ hoá trong vật liệu vô định hình”, “phương pháp gia tốc…”

Khi mà công trình nghiên cứu chỉ khảo sát những vấn đề cơ bản của một vấn đề nào đó và tài liệu không đủ làm sáng tỏ cặn kẽ vấn đề ấy trong một đầu đề khiêm tốn như: “Bàn về tính chất hoá học của hỗn hợp rắn của hợp kim”, “Bàn về hoạt tính của các chất chứa điazôli và Nitơ khi muộn lạnh:…

Cần tránh:

Đưa vào đầu đề luận văn bất kỳ một loại công thức nào, một loại đại lượng phần trăm, các loại thuật ngữ dài dòngbằng tiếng latính hay các loại từ chuyên môn khác làm cho đầu đề thêm phức tạp, khó hiểu. Ví dụ: “Phân tích lý hoá trong lĩnh vực điều chế phốt phát từ axit nitric: một phần của hệ thống năm nhóm hợp chất CaO – N2O5 – P2O5 – H2SiF6 – H2O”.

Đưa vào đầu đề luận văn các hình thức bất định dưới dạng “Một vài nhiệm vụ…”, “Phân tích một số vấn đề…”, “Vài phác hoạ về hình thái…”, “Vài suy nghĩ về…”

Xác định đầu đề trong hình thức khuôn sáo dưới dạng: “Bàn về vấn đề…”, “Tổng hợp…”, “Phân tích và khái quát…”, “Giải quyết…”, “Về việc nghiên cứu…”… Đồng thời cũng không nên xem là tốt đối với các đầu đề mà ở đấy chỉ nhấn mạnh mặt thực nghiêm, mang tính chất thuần tuý thực dụng mà không hề có tính chất nghiên cứu tìm tòi khoa học.

Ví dụ: “ Thu sunfat Kali từ Klorit Kali”, “Việc đo sức cản bề mặt của thiếc siêu dẫn ở tần số 9400 mêgahéc”. “Tính toán các thanh lát đường sắt”…

VND

5000000

Product Availability

Available in Stock

Nghiên Cứu Khoa Học Là Gì? Mục Đích Và Ý Nghĩa Của Nckh

Nghiên cứu khoa học là gì ? Nghiên cứu khoa học là một quá trình hành động, tìm hiểu, quan sát và thí nghiệm dựa vào các dữ liệu, tài liệu đã được thu thập giúp phát hiện ra những bản chất và quy luật chung của sự vật và hiện tượng. Thông qua đây, bạn có thể tìm hiểu về các kiến thức mới hay tìm ra những ứng dụng trong kỹ thuật, mô hình mới với ý nghĩa thực tiễn.

Nghiên cứu khoa học tập trung vào những nội dung chính như sau:

Nghiên cứu khoa học được xem là một quá trình nhận thức hướng vào tất cả các góc cạnh trên thế giới nhằm đạt kết quả nghiên cứu mới hơn, cao hơn, giá trị hơn.

Nghiên cứu khoa học là việc khám phá về thuộc tính, bản chất của sự vật, hiện tượng nhằm phát hiện những quy luật vận động vốn có của những sự vật, hiện tượng có trong tự nhiên và xã hội.

Các loại hình nghiên cứu khoa học

Tùy thuộc vào từng mục tiêu nghiên cứu và những sản phẩm thu được khác nhau người ta phân chia thành các loại hình nghiên cứu khoa học. Nghiên cứu khoa học bao gồm những loại hình sau:

Đây là hoạt động nghiên cứu giúp phát hiện ra bản chất và quy luật của sự vật, hiện tượng có trong tự nhiên, xã hội và con người. Nhờ vào những phát hiện này để làm thay đổi về nhận thức của con người.

Nghiên cứu cơ bản bao gồm nghiên cứu cơ bản thuần túy và nghiên cứu cơ bản định hướng. Trong nghiên cứu cơ bản định hướng lại được chia làm nghiên cứu nền tảng và nghiên cứu chuyên đề.

Hoạt động nghiên cứu này sẽ vận dụng những quy luật đã được phát hiện bởi nghiên cứu cơ bản. Nhờ vào đó sẽ giúp giải thích được những vấn đề, sự vật, hiện tượng nhằm giúp hình thành nguyên lý công nghệ, sản phẩm, dịch vụ mới và áp dụng chúng vào hoạt động sản xuất và trong đời sống…

Hoạt động nghiên cứu thăm dò nhằm xác định ra các phương hướng nghiên cứu, thăm dò thị trường giúp tìm kiếm cơ hội nghiên cứu.

Ý nghĩa của nghiên cứu khoa học

Nghiên cứu khoa học mang tới nhiều ý nghĩa cho người thực hiện nghiên cứu. Thông qua bài nghiên cứu sẽ giúp mọi người được chủ động hơn và hình thành được những phương pháp, tư duy mới. Từ đó sẽ giúp phát hiện ra vấn đề và giải quyết vấn đề một cách tốt nhất.

Một công trình nghiên cứu khoa học thành công còn giúp mang tới niềm vui cho người thực hiện. Đồng thời đây cũng là một giai đoạn tiền đề tạo điều kiện cho các bạn thực hiện tốt những dự án, bài báo cáo sau này.

Mục đích nghiên cứu khoa học

Một bài nghiên cứu khoa học hoàn chỉnh bao gồm các mục tiêu cơ bản như sau:

Mục tiêu sáng tạo

Đây là mục đích tạo ra công nghệ mới đối với toàn bộ những lĩnh vực hoạt động có trong đời sống và xã hội nhằm nâng cao về trình độ văn minh và nâng cao năng suất đối với tất cả những lĩnh vực hoạt động.

Mục đích kinh tế

Nghiên cứu khoa học giúp mang tới hiệu quả kinh tế cao, từ đó làm tăng trưởng kinh tế trong xã hội.

Mục đích văn hóa và văn minh

Hoạt động nghiên cứu khoa học giúp mở mang trí thức, nâng cao về trình độ văn hóa. Đây cũng là bước cơ bản giúp hoàn thiện con người, đưa xã hội phát triển lên một trình độ văn mình hơn.

Bài nghiên cứu khoa học được thực hiện cần phải đảm bảo những đặc điểm cơ bản như sau:

Đây là một thuộc tính quan trọng trong nghiên cứu khoa học. Một bài nghiên cứu khoa học cần phải hướng đến phát hiện mới và không có sự lặp lại của các thí nghiệm, cách lý giải và kết luận cũ,… Tính mới trong nghiên cứu khoa học đòi hỏi phải có sự sáng tạo và tư duy nhạy bén.

Kết quả nghiên cứu nào đưa ra đều phải được kiểm chứng lại nhiều lần. Bởi trong một công trình nghiên cứu khoa học có thể được thực hiện bởi nhiều người, trong nhiều điều kiện khác nhau…

Kết quả nghiên quả cần phải đủ độ tin cậy để kết luận về bản chất của sự vật và hiện tượng.

Tính khách quan trong bài nghiên cứu khoa học đó chính là sự trung thực. Vì vậy để đảm bảo được về tính khách quan, người nghiên cứu không được nhận định một cách vội vàng dựa theo cảm tính mà cần phải kiểm tra lại kết luận xem đã chính xác hoàn toàn chưa.

Mục đích nghiên cứu khoa học là góp phần tăng hiệu quả kinh tế. Do đó đặc điểm không thể bỏ qua của nghiên cứu khoa học là tính kinh tế.

Khi nghiên cứu khoa học, cần phải tính toán và cân nhắc một cách thận trọng. Tuy nhiên đôi lúc người thực hiện nghiên cứu khoa học cũng cần để ý tới những yêu cầu sau:

Người nghiên cứu cần mạnh dạn nhìn nhận vấn đề, đề tài chưa có ai thực hiện nghiên cứu hay những đề tài mang tính mới mẻ.

Cần phải chấp nhận được rủi ro, thất bại trong nghiên cứu khoa học.

Bài nghiên cứu khoa học mẫu

Bạn đang đọc nội dung bài viết Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học Là Gì trên website Shareheartbeat.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!